Thứ Ba, 28 tháng 12, 2010

GIÊHU, GIAHAXIÊN, VÀ ÊLIÊXE



NHÂN VẬT KINH THÁNH
GIÊHU, GIAHAXIÊN, VÀ ÊLIÊXE
II Sử ký 19.1-21.1
Phần giới thiệu:
Chúng ta tiếp tục loại bài nghiên cứu về “Nhân vật Kinh Thánh” là loại bài “Các tiên tri trong Cựu Ước”.
Chúng ta đã nhìn vào một số nhân vật nổi tiếng và một số nhân vật không nổi tiếng lắm trong Kinh Thánh.
Chúng ta đã nói có những nhân vật Kinh Thánh mà chúng ta biết rất ít hoặc không biết chi hết về họ, nhưng những câu chuyện của họ rất quan trọng trong chương trình và mục đích của Đức Chúa Trời trong lịch sử.
Trong hai phân đoạn cuối cùng, chúng ta đã nhìn thấy tiên tri Michê, ông chỉ có một lời tiên tri ngắn được ghi lại trong Kinh Thánh khi ông nói tiên tri về Aháp, Vua xứ Israel, và Giôsaphát, Vua xứ Giuđa, về việc ra trận với Syri để chiếm xứ Ramốt trong Galaát.
Tối nay, chúng ta xem xét lẽ thật nầy ở ba vị tiên tri, họ đã nói tiên tri về Giôsaphát – ấy là Giêhu, Giahaxiên, và Êliêxe.
I. SỨ ĐIỆP TỪ GIÊHU CHO GIÔSAPHÁT (II Sử ký 19.1-3)
Giôsaphát trở về an toàn và không bị thương từ cuộc chiến trong đó Aháp đã mất mạng sống mình.
Nhưng trên đường về, đấng tiên kiến Giêhu, con trai của Hanani, đã đón ông với một lời quở trách.
Bây giờ, hãy hiểu Giêhu đã chần chừ không quở trách Giôsaphát vì cớ cha ruột mình là Hanani, đã bị cầm tù vì đã quở trách Vua Asa (II Sử ký 16.7...).
A. Giêhu đã quở trách Giôsaphát vì đã trợ giúp Aháp bất kính.
Là vấn đề bàn bạc theo con người, cách xử sự của Giôsaphát trong việc hiệp cùng Aháp chống lại quân Syri không những có thể bào chữa được, mà còn dường như là việc khôn ngoan và cẩn thận phải lo làm nữa.
Nhưng theo quan điểm của Đức Chúa Trời, Aháp là một kẻ chuyên thờ lạy hình tượng, và đã giới thiệu vào xứ sở mình một thứ tà giáo mới mẻ rất đồi trụy. Điều nầy cũng đủ khiến cho Giôsaphát phải từ chối phần liên minh của mình. Thành công về mặt quân sự chỉ có thể đến từ ơn phước và sự bảo hộ của Đức Giêhôva mà thôi. Aháp không nằm trong một địa vị nhận lãnh ơn phước hay sự bảo hộ của Đức Chúa Trời và Giôsaphát phải nhìn biết như thế.
B. Giêhu nói cho Giôsaphát biết cơn thạnh nộ của Đức Giêhôva sẽ đổ trên ông.
Giôsaphát đã có một tiên vị về cơn thạnh nộ nầy rồi, khi trong chiến trận dành lấy Ramốt xứ Galaát, quân thù đã lấn lướt trên ông (II Sử ký 18.31).
Sau đó một thời gian, ông đã kinh nghiệm thêm cơn thạnh nộ đó, một phần trong cuộc đời ông, khi quân thù đến bao vây xứ sở ông (II Sử ký 20.1…).
C. Giêhu nói cho Giôsaphát biết có nhiều việc tốt lành được thấy có nơi ông.
Ông đã dở bỏ nhiều bụi cây ra khỏi xứ và ít nhất đã dọn lòng tìm kiếm Đức Chúa Trời.
Vì thế, chúng ta thấy một sứ điệp đơn sơ và lời cảnh cáo Vua xứ Giuđa phát ra từ Giêhu.
II. SỨ ĐIỆP TỪ GIÊHU TÁC ĐỘNG VÀO GIÔSAPHÁT.
Chúng ta thấy đó, ít nhất là trong một thời gian, Giôsaphát đã để cho sứ điệp của Đức Chúa Trời phải lắng xuống.
A. Ông đã đem dân sự về với Đức Giêhôva là Đức Chúa Trời của tổ phụ ông (19.4)
B. Ông lập lên và ra huấn thị cho các quan xét trong xứ (19. 5-7)
C. Ông lập lên và ra huấn thị cho người Lêvi, các thầy tế lễ, và các cấp trưởng lão tại thành (19. 8-11)
D. Ông tự hạ mình xống và tự mình tìm kiếm Đức Giêhôva và công bố kiêng ăn khắp cả xứ (20.1-13)
III. SỨ ĐIỆP TỪ GIAHAXIÊN CHO GIÔSAPHÁT (20.14-17)
A. Chớ sợ, chớ kinh hãi vì sự lớn lao và tầm cỡ của quân thù (20.14-15)
Có thể chúng ta không đánh trận với quân thù bằng thịt và máu, nhưng mỗi ngày theo Êphêsô 6.12, chúng ta đánh trận “cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy”.
B. Trận chiến không thuộc về bạn, mà thuộc về Đức Chúa Trời (20.15)
Chúng ta cần phải ghi nhớ, là tín đồ, chúng ta có Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong chúng ta. Nếu chúng ta phục theo Đức Chúa Trời và cầu xin sự trợ giúp của Đức Chúa Trời khi chúng ta đối diện với những trận chiến, Đức Chúa Trời sẽ đánh trận thay cho chúng ta. Và Đức Chúa Trời luôn luôn đắc thắng.
Chúng ta để Đức Chúa Trời đánh trận thay cho chúng ta như thế nào?
1. Bằng cách nhìn biết chiến trận không thuộc về chúng ta, bèn là thuộc Đức Chúa Trời.
2. Bằng cách nhìn biết những giới hạn của con người và để cho sức lực của Đức Chúa Trời hành động qua những nổi sợ hãi và yếu đuối của chúng ta.
3. Bằng cách biết chắc chúng ta đang theo đuổi mọi ơn phước của Đức Chúa Trời chớ không theo đuổi mọi ham muốn ích kỷ của chúng ta.
4. Bằng cách cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ trong các chiến trận hàng ngày của mình.
C. Đức Chúa Trời đã ban ra các huấn thị cho họ phải vâng theo (20.16-17)
IV. SỨ ĐIỆP TỪ GIAHAXIÊN TÁC ĐỘNG TRONG GIÔSAPHÁT (20.18-30)
A. Ông tự hạ mình xuống và thờ lạy Đức Giêhôva và khắp xứ Giuđa đã làm theo y như vậy (20.18-19)
B. Ông dạy bảo dân sự phải tin theo (nghĩa là, vâng lời) Đức Giêhôva và các tiên tri Ngài (20.20)
C. Ông chỉ định các ca viên phải hát ngợi khen Đức Giêhôva (20.21-22)
D. Đức Chúa Trời đã ban cho họ sự vinh hiển (20.23-25)
E. Họ đã chúc phước cho Đức Giêhôva (20.26)
F. Họ vui mừng trong Đức Giêhôva (20.27-28)
G. Đức Giêhôva đã ban cho họ được an nghỉ (20.29-30)
V. SỰ SỤP ĐỔ CỦA GIÔSAPHÁT (20.31-36)
A. Sự phân rẻ không được trọn (các câu 31-33)
B. Liên minh bất khiết (các câu 34-36)
VI. SỨ ĐIỆP TỪ ÊLIÊXE CHO GIÔSAPHÁT (20.37)
A. Ông nói tiên tri nghịch Giôsaphát.
B. Nhiều tàu bè bị đắm.
C. Giôsaphát qua đời
(21.1)
Phần kết luận:
Thế là chúng ta đang xem xét ba vị tiên tri nầy của Đức Chúa Trời, họ trung tín phân phát ra các sứ điệp của họ cho Vua Giôsaphát.
Đức Chúa Trời cũng có một lời cho thế hệ nầy, là thế hệ chúng ta đang sinh sống trong đó. Sứ điệp được thấy có trong sách nầy – là Kinh Thánh.
Chúng ta cũng phải trung tín lo công bố Lời của Đức Chúa Trời cho những kẻ sống trong thế hệ của chúng ta.

SỨ ĐỒ GIACƠ: CON TRAI CỦA XÊBÊĐÊ



NHÂN VẬT KINH THÁNH
SỨ ĐỒ GIACƠ: CON TRAI CỦA XÊBÊĐÊ
– PHẦN 2

Phần giới thiệu.
Chúng ta đã khởi sự xem xét Sứ đồ Giacơ trong tuần qua, ông là anh của Sứ đồ Giăng.
Ôn lại – Sứ đồ Giacơ – Phần 1
I. LAI LỊCH CỦA GIACƠ.
Có 3 Gia cơ trong Kinh Thánh (Mathiơ 10.1-4)
1. Hai vị Sứ đồ có tên là Giacơ:
a. Giacơ, anh của Giăng
b. Giacơ, con của Aphê
2. Và có em kế của Chúa, cũng có tên là Giacơ (Mathiơ 13.54-56; Galati 1.19)
II. SỰ KÊU GỌI CỦA GIACƠ (Mathiơ 4.18-22; Luca 5.10)
Cũng giống như sự kêu gọi bao người khác mà Chúa Jêsus đã thực hiện – Sự kêu gọi ấy còn tiếp tục.
III. SỰ ĐÀO TẠO GIACƠ.
1. Có một nghề nghiệp – là một ngư phủ
2. Rồi qua 3 năm rưỡi với Chúa Jêsus
a. Học biết nhìn xem cuộc sống qua ánh mắt của Đấng Christ
b. Học biết phải đối diện với bất cứ điều gì, rồi chỉ với đức tin mà thắng hơn.
IV. MỐI QUAN HỆ CỦA ÔNG VỚI CHÚA JÊSUS – LÀ CHI THỂ CỦA VÒNG TRONG CÙNG.
V. ĐẶC ĐIỂM CỦA GIACƠ .
Trong hai sự cố được ghi lại trong Kinh Thánh cho thấy Chúa thực sự bắt đầu nắn đúc và thay đổi bổn tánh của Giacơ – và ông không nhìn biết sự ấy – ít nhất cho tới sau khi Chúa phục sinh!
Chúa Jêsus đặt tên lại cho Giacơ và Giăng thành “Con Trai của Sấm Sét” hay “mau nóng giận” – mau phản ứng (Mác 3.17)
A. Ông chịu áp lực với cơn giận dữ.
Cơn giận của người Samari làm nổ ra cơn giận ở trong lòng của hai vị sứ đồ – cơn giận ấy tác động cả Giacơ và Giăng.
Chúa Jêsus chỉ ra rằng họ chịu ảnh hưởng của một tâm linh SAI TRÁI.
B. Ông tìm kiếm sự nổi bật (Mác 10.35-41; Mathiơ 20.20-24).
Giờ đây, chúng ta cũng hãy xét xem thể nào Giacơ đã tìm cách nổi bật hơn Thân Vị của Chúa Jêsus – nghĩa là, tìm kiếm đời sống thiện hảo thay vì đời sống tin kính.
1. Các phần thưởng của một đời sống Cơ đốc (Mác 10.28-31).
Chúng ta cần từng phần thưởng để được nhắc nhớ đến mọi ơn phước của đời sống Cơ đốc.
a. Hiển nhiên là Phierơ đã lo về việc chẳng được gì ở mức cuối cùng – Hãy nhớ, ông đã lìa bỏ mọi sự trong 3 năm trời tại bờ biển.
b. Chúa Jêsus hứa với từng Cơ đốc nhân nào được 100 lần hơn những gì họ mất mát (lãi 10.000%)
c. Và phần chi trả KHÔNG NHỮNG trên thiên đàng, mà chúng ta còn nhận được nhiều ơn phước trong đời nầy nữa!
d. Nhưng chìa khóa được tìm thấy qua hai từ:
1) Mất mát – nếu mọi sự chúng ta nhắm vào là lợi lộc, khi ấy chúng ta sẽ mất mát.
2) Sự bắt bớ – nếu chúng ta không chiếm một chỗ đứng vì cớ Chúa, chúng ta sẽ vấp ngã.
2. Lý do cho đời sống Cơ đốc nhân (Mác 10.32-34).
Điều nầy rất cụ thể:
a. Khi họ càng đến gần thành Jerusalem hơn trong lần cuối cùng, có hai việc xảy ra trong lòng của các sứ đồ:
1) Họ kinh ngạc – ngạc nhiên, bị sốc trong chỗ họ cảm nhận
2) Họ sợ hãi – là cảm xúc không đúng – dường như họ đang hướng vào một cơn bão, vào thời điểm hoạn nạn xấu xa, và họ chẳng muốn đi tiếp nữa.
3) Chính ở chỗ nầy mà Chúa Jêsus đã lấy mắt nhìn xem họ, một lần nữa Ngài giải thích mọi điều có ở trước mặt họ, đặc biệt mọi điều ở trước mặt dành cho CHÍNH MÌNH NGÀI.
a) Ngài nói cho họ biết, Ngài sẽ bị bắt và bị dẫn đến Thầy tế lễ thượng phẩm.
b) Ngài nói cho họ biết, Ngài sẽ bị xét đoán cho đến chết.
c) Ngài nói cho họ biết, Ngài sẽ bị chuyển qua cho người Lamã. Ở đó Ngài bị chế giễu, bị đánh đòn, bị khạc nhổ vào mặt rồi bị giết.
d) Nhưng, Ngài nói cho họ biết, Ngài sẽ sống lại!
b. Bạn nghĩ các sứ đồ sẽ tìm kiếm gì sau khi nghe hết sự thể nầy?
Họ đang nghĩ gì vậy? BẠN đang nghĩ gì thế?
3. Xác thịt trị vì trong đời sống Cơ đốc nhân (Mác 10.35-40).
Đây cũng là mẫu mực cho hết thảy chúng ta nữa! Bất luận chúng ta đọc Kinh Thánh, hay tôi giảng nhiều dường nào, chúng ta thường xử sự giống như Giacơ hơn là giống Chúa Jêsus!
a. Giacơ bỏ qua mọi sự nói tới thập tự giá, và thành Jerusalem.
b. Giacơ không chú trọng nhiều vào Chúa Jêsus là Cứu Chúa.
c. Lý trí ông chỉ khóa lại ở chỗ Chúa Jêsus là Vua – Giacơ tưởng họ sẽ tới thành Jerusalem để lập Chúa Jêsus làm Vua mà thôi!
d. Bây giờ, chúng ta biết sự trị vì của chúng ta là một thực tại, nhưng việc ấy sẽ có về sau nầy kia.
e. Hãy chú ý công việc của xác thịt ở đây.
1) Xác thịt không muốn nghe về thập tự giá – đây là sự rồ dại.
2) Xác thịt bị lèo lái bởi điều chi ham muốn, chớ không phải bởi những điều Đấng Christ mong muốn.
3) Xác thịt muốn bảo Chúa Jêsus những điều phải làm.
4) Xác thịt nhận hạng người có ảnh hưởng giúp cho bạn có được những gì bạn ham muốn – thậm chí mẹ ruột của bạn nữa đấy!
5) Xác thịt sẽ thờ lạy BẤT CỨ ĐIỀU CHI hay BẤT CỨ AI bao lâu nó nhận được những gì nó ham muốn!
6) Xác thịt chỉ muốn sưởi trong sự vinh hiển của Đấng Christ, chớ không tìm cách DÂNG cho Đấng Christ sự vinh hiển.
a) Những nữ hoàng hay thủ lãnh đều ngồi tại những vị trí nầy, cùng với nhà vua.
b) Họ biết rõ Chúa Jêsus sẽ trị vì – rõ ràng là ở chỗ Ngài thể hiện ra quyền phép siêu nhiên.
7) Xác thịt của Giacơ mong muốn điều gì? Sứ đồ Giacơ đã tìm cách để được “CAO CẢ HƠN NGƯỜI KHÁC”.
i. Rõ ràng Chúa Jêsus là ĐỈNH CAO – đạo đức giả dường bao.
ii. Nhưng chỗ số 2 phải có sẵn ở đó, và GIACƠ tưởng ÔNG ẤY là thiện hảo đủ cho địa vị ấy!
f. Bây giờ, không những Giacơ và Giăng là hạng người bị tiêm nhiễm với “căn bịnh” nầy – chúng ta cũng thế.
1) Tất cả các sứ đồ vào những thời điểm khác nhau đã tranh cãi ai là nhân vật lớn lao nhất (Mác 9.30-35; Luca 22.24).
2) Con người tôn giáo – người Pharisi (Mathiơ 23.4-5).
3) Một lãnh đạo có sức lôi cuốn nhất trong Hội Thánh – Điôtrép (III Giăng 1.9-10)
4. Cái giá cao trọng của một Cơ đốc nhân (Mác 10.38-40).
a. Chúa Jêsus đã hỏi Giacơ không biết ông và bất kỳ ai khác có thể uống cái “chén” của Ngài và “chịu báptêm” với phép báptêm của Ngài hay không?
b. Ngay lập tức, ông đáp: “Tất nhiên là chúng tôi có thể chịu được!”
c. Rõ ràng, Giacơ không chú ý gì nhiều cả, vì ông không có một manh mối nào về những gì Chúa Jêsus mới nói.
d. Chúa Jêsus nói cho Giacơ biết ông chắc chắn SẼ uống từ chính “cái chén” mà Chúa Jêsus sẽ uống, và chịu báptêm với chính “phép báptêm” mà Chúa Jêsus sẽ chịu.
1) Cả hai điều nầy đều đề cập đến sự chết của Ngài.
2) Bạn thấy đấy, giá của sự vinh hiển rất cao.
3) Mỗi ngôi sao ca nhạc và điện ảnh sẽ nói cho bạn biết y như thế.
5. Tái tập trung vào đời sống Cơ đốc (Mác 10.41-45)
a. Tự xét mình (I Giăng 4.1). Chúng ta cần phải xét lại mọi thái độ của chúng ta.
b. Hạ mình xuống. Không phải là yếu đuối, nhưng để cho ai đó đứng vị trí đầu.
c. Lo phục vụ
1) Khi nào là lần cuối cùng không những bạn làm một việc gì cho ai đó, và chỉ GIỮ mình là nguồn phước cho họ, hết thảy vì cớ Chúa Jêsus?
2) Phục vụ có nghĩa là HẦU VIỆC, như một nô lệ thấp hèn, chuyên rửa chơn của một tôi tớ!!!
3) Tôi tớ của mọi người sẽ là Chủ của mọi người ở trong Vương quốc của Đức Chúa Trời.
4) Giờ đây, chúng ta đang nhìn biết và hiểu rõ mọi điều Chúa Jêsus đã đến để sống và lo làm – không phải để cai trị và trị vì trên đời sống của nhiều người như một bạo chúa, mà là để cứu chuộc!
Phần kết luận:
Vì thế, chúng ta hãy ôn lại bổn tánh của Giacơ:
a. Ông không biết mình đang chạy theo tâm linh nào
1) “Bỏ qua một bên” là điều rất dễ làm
2) Kinh Thánh dạy chúng ta phải mềm mại – ý thức đủ về chiến trận thuộc linh có thể nổi nóng vào bất cứ thời điểm nào.
b. Ông không biết loại thắc mắc nào mà ông đã đưa ra với Đấng Christ.
Nhưng rồi, . . .
Chúng ta nhìn thấy khả năng của ông. Có điều gì đó đã xảy ra cho Giacơ sau khi Chúa phục sinh!
1. Đức Thánh Linh tạo ra sự khác biệt trong đời sống của người tin Chúa.
a. Tin theo Đức Chúa Trời chẳng có nghĩa gì hết. Tin NƠI Chúa Jêsus có chút ý nghĩa thôi.
b. Tin VÀO Chúa Jêsus – tin cậy hoàn toàn vào sự chết, sự chôn và sự sống lại của Chúa Jêsus để được cứu rỗi.
c. Nhưng phục theo công tác của Đức Thánh Linh trong đời sống của chúng ta tạo ra sự thay đổi trong đời sống của chúng ta! Chúng ta cần phải để cho Ngài làm cho chúng ta tan vỡ, nắn đúc và tái tạo chúng ta.
2. Ông đã chuyên sâu trong việc học hỏi và dạy dỗ Lời của Đức Chúa Trời, và sự cầu nguyện (Công Vụ các Sứ đồ 6.3-4)
Chúng ta nhìn thấy sự cuối cùng của ông (Công Vụ các Sứ đồ 12.1-2)
1. Ông không được giữ cho khỏi chết.
2. Làm một người tuận đạo là một vinh dự – ông đã uống cái chén ấy.
3. Thà làm một của lễ sống thì tốt hơn.

SỨ ĐỒ GIACƠ: CON TRAI CỦA XÊBÊĐÊ



NHÂN VẬT KINH THÁNH
SỨ ĐỒ GIACƠ: CON TRAI CỦA XÊBÊĐÊ
–PHẦN 1
Phần giới thiệu
.
Chúng ta đang nghiên cứu các Sứ đồ của Đấng Christ trong loạt bài “Nhân Vật Kinh Thánh”.
Chúng ta nhìn thấy gì khi chúng ta xem xét hạng người nầy?
1. Chúng ta thấy những con người thật.
2. Chúng ta thấy một số đời sống thật mà họ đã sống – cách đây khoảng 2.000 năm.
3. Chúng ta nhìn thấy sự thay đổi thật khi Chúa Jêsus tác động vào họ – chẳng có cách thức nào để một người cứ giữ nguyên không bị tác động khi Chúa Jêsus ngự vào đời sống của họ.
Chúng ta đã nói các “Sứ Đồ” là:
1. Hạng người đặc biệt được sai đi – bởi Chúa Jêsus.
2. Mục đích của họ là phải thiết lập Hội Thánh Tân Ước và đặt nền tảng cho Hội Thánh ấy, là điều họ đã làm trong thế kỷ đầu tiên.
a. Đức Chúa Jêsus Christ là hòn đá góc.
b. Các sứ đồ đã đặt nền tảng theo hòn đá góc đó.
c. Họ từng hoàn thành xong phần việc của họ, họ đã qua đời rồi.
d. Chúng ta chỉ xây dựng trên cái nền mà họ đã đặt – chẳng cần quay trở lại rồi thay đổi nó, hoặc ra sức cải thiện trên cái nền ấy.
3. Chẳng cần thêm các sứ đồ nữa – chẳng cần phải truyền đi từ thế hệ nầy sang thế hệ khác.
Chúng ta đã xem qua đời sống của Simôn Phierơ, và Anhrê em người trước đây rồi.
Tối nay, chúng ta nhìn xem Giacơ, là em của sứ đồ Giăng.
I. LAI LỊCH CỦA SỨ ĐỒ GIACƠ.
A. Có ba Giacơ được nhắc tới trong Kinh Thánh (Mathiơ 10.1-4)
Giacơ, con của Xêbêđê, một người anh của sứ đồ Giăng.
Giacơ, con của A-phê, sứ đồ, nhưng ít biết về ông (Giacơ nhỏ).
Giacơ, em kế của Chúa Jêsus, lãnh đạo Hội Thánh tại thành Jerusalem và là tác giả của sách Giacơ.
Giacơ là cái tên rất phổ thông.
Theo tiếng Hy lạp thì tên nầy nói tới “Jacob” (Giacốp) có nghĩa là “kẻ chiếm đoạt”.
B. Chúng ta biết gì về Giacơ, con trai trong gia đình Xêbêđê?
1. Gia đình của Giacơ rất giàu có (Mác 1.19-20).
Xêbêđê, là một ngư phủ người xứ Galilê và hiển nhiên rất giàu có, khi Kinh Thánh chép rằng ông đã thuê nhiều tôi tớ để trợ giúp trong việc quản lý các chiếc thuyền của ông.
2. Gia đình của Giacơ có địa vị (về mặt xã hội) (Giăng 18.13-16)
Xêbêđê có một ngôi nhà trong thành Jerusalem và ai cũng biết ông là bạn của Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm Caiphe, và người nhà của ông ta. Điều nầy đánh dấu ông là một người có địa vị xã hội.
3. Tên của mẹ Giacơ là Salômê.
Truyền khẩu cho rằng bà là chị em của Nữ đồng trinh Mary, điều nầy có thể giúp chiếu sáng trên mối quan hệ của các con trai bà với Chúa Jêsus. Nếu điều nầy là thực, thì Giacơ sẽ là anh em bà con với Chúa Jêsus theo phần xác.
C. Chúng ta biết gì về Giacơ trước chức vụ Sứ đồ của ông?
Giacơ là một ngư phủ. Ông đã sống theo nghề nghiệp của gia đình.
Giacơ đã cùng làm việc với cha, em và Simôn Phierơ.
Ông rất bận rộn với thuyền và lưới khi sự kêu gọi của Đấng Christ đến với ông.
II. SỰ KÊU GỌI CỦA SỨ ĐỒ GIACƠ (Mathiơ 4.18-22; Luca 5.10).
Đây là sự kêu gọi tương tự như sự kêu gọi của những người khác mà Chúa Jêsus đã gọi!
Sự kêu gọi là “theo”. Sự kêu gọi chúng ta cũng là “theo”.
Sự kêu gọi không phải là bắt chước – theo hành động, hay phỏng theo – có đủ nhiều người ở chung quanh.
Nhưng thay vì thế, sự kêu gọi là phải trở nên giống như Chúa Jêsus! Cứ hướng mắt chúng ta nhìn về Chúa Jêsus và học theo Ngài!
Nghe và đáp trả với sự kêu gọi nầy thì dòng sự sống của mình được thay đổi cho đến đời đời!
Tên của Giacơ được gắn liền với em ông là Giăng trong danh sách các sứ đồ, điều nầy có nghĩa là khi họ được sai đi từng đôi một, Giacơ và Giăng sẽ là một cặp.
Rõ ràng, họ là hạng người có tánh khí mà Chúa Jêsus đã nói là “con trai của sấm sét”.
III. PHẦN ĐÀO TẠO CỦA GIACƠ.
Như vậy, chúng ta biết rõ Giacơ có một nghề nghiệp – ông là một ngư phủ. Ông lớn lên gần biển cả.
Thế rồi ông đã để ra khoảng 3 năm với Chúa Jêsus. Trong thời gian đó:
a. Ông đã học biết nhìn xem cuộc ống qua cặp mắt của Đấng Christ!
b. Ông đã học biết cách thức đối mặt với bất cứ việc gì trong cuộc sống, và chỉ thắng hơn bởi đức tin mà thôi!
IV. MỐI QUAN HỆ CỦA GIACƠ VỚI CHÚA JÊSUS LÀ CHI THỂ CỦA VÒNG TRONG.
A. Chúng ta thấy ông có mặt tại Núi Hóa Hình (Mathiơ 17.1)
B. Chúng ta thấy ông có mặt khi con gái Giairu được chữa lành (Mác 5.37)
C. Chúng ta thấy ông đang tiếp thu về kỳ đại nạn hầu đến (Mác 13)
D. Chúng ta thấy ông tại Vườn Ghếtsêmanê (Mác 14.33)
V. CÁ TÁNH CỦA GIACƠ ĐƯỢC TỎ RA.
Những gì chúng ta sắp sửa nhìn thấy trong đời sống của Giacơ không nằm trong “mặt thuộc linh”.
Đây là sự thể hiện ra người cũ hiện đang có sẵn trong hết thảy chúng ta. Nếu chúng ta thành thực, có lẽ chúng ta sẽ phải nói có toàn bộ thể cách của Giacơ trong hết thảy mọi người chúng ta.
Có hai sự cố chúng ta muốn nhìn thấy chúng minh họa con người bề trong của Giacơ.
Ông nắm giữ áp lực với cơn giận.
Ông tìm cách nổi trội lên (Mác 10.35-41)
Chính trong hai sự cố nầy Chúa thực sự bắt đầu nắn đúc và thay đổi tánh tình của Giacơ – và thậm chí ông không biết được sự ấy – ít nhất cho tới sau khi có sự sống lại!
Ngay cả Chúa Jêsus đặt tên lại cho cả Giacơ và Giăng là “Bô-a-nẹt” hay “con trai của sấm sét” cho thấy rằng họ mau nổi nóng hay mau phản ứng (Mác 3.17).
A. Ông đã giận lên khi bị áp lực (Luca 9.51-56)
1. Lai lịch của những gì đã diễn ra (Luca 9.51-54)
a. Đã 3 năm ½ kể từ khi Chúa Jêsus khởi sự chức vụ dạy dỗ, chữa lành có phương pháp, chứng tỏ rằng Ngài là Đấng Mêsi.
b. Giacơ, cũng như hết thảy 12 sứ đồ đã ở với Chúa Jêsus hầu hết trọn 3 năm ½ đó.
c. Đây là đoạn đường vất vả của đức tin – và chẳng có gì dễ dàng hết.
d. Bấy giờ, Chúa Jêsus không làm ra phép lạ nào nữa, và định lên thành Jerusalem cho kịp Lễ Vượt Qua.
e. Khi Ngài đi ngang qua xứ Samari, Chúa Jêsus gần như chẳng biết gì hết về các nhu cần ở quanh Ngài.
1) Dân sự được đưa đến với Chúa Jêsus cần được chữa lành.
2) Dân sự đang chờ đợi nghe Ngài giảng đạo.
3) Nhưng họ chỉ được tiếp đón với “Ta cần phải lên thành Jerusalem”.
4) Điều nầy khiến cho người Samari GIẬN DỮ.
a). Họ cảm thấy bị phản bội, tổn thương, bị chối bỏ.
b) Nhưng họ chỉ hậm hực.
c) Chúa Jêsus không đến để chủ yếu làm mọi sự đó.
d) Ngài chủ yếu đến để chịu chết cho hàng tội nhân.
f. Sự giận dữ của người Samari gây ra cơn giận trụ ở trong lòng hai vị Sứ đồ – nó tác động cả hai: Giacơ and Giăng.
g. Hãy xem điều họ muốn làm.
1) Họ xin Chúa Jêsus nếu được phép họ sẽ tỏ ra cho những người Samari VÔ ƠN, CHẲNG CÓ GIÁ TRỊ GÌ HẾT nầy nhìn biết thực sự Chúa Jêsus là AI!
2) Họ muốn phủ cơn giận của người Samari bằng cơn thạnh nộ của họ theo HÀNG SỨ ĐỒ!
3) Họ muốn tiến tới đối đầu với những kẻ “vô lại” nầy.
4) Thậm chí họ còn nhờ Kinh Thánh làm theo điều họ cảm nhận.
a. Họ đã chỉ ra thể nào Êli đã thiêu đốt những kẻ thù của ông.
b. Họ cảm thấy họ cũng có thể làm được y như vậy!
2. Đây là then chốt của bài học mà Chúa Jêsus đang xử lý với (Luca 9.55-56).
a. Chúa Jêsus đối diện với nan đề rất thực – một TÂM LINH SAI TRÁI!
1) Những thái độ sai trái có rất nhiều ở đây trong hoàn cảnh nầy.
2) Trạng thái của tâm thần mà họ đã có là một số cảm xúc không tốt.
3) Các thái độ, các quan điểm của Giacơ và Giăng đã chịu ảnh hưởng sai trái của một việc – ở điểm họ nghĩ “thổi tung cả ngôi làng ra khỏi tấm bản đồ” là việc phải lo làm!
b. Tâm thần sai trái đang gây thiệt hại cho sứ mệnh của Đấng Christ!
1) Hãy nhớ thể nào Môise đã tự mình bị áp đặt với một tâm thần sai trái? (Dân số ký 20.10-12).
2) Hãy nhớ thể nào Phierơ, ngay sau khi công bố Chúa Jêsus là Đấng Mêsi, là Con của Đức Chúa Trời, đã để cho tâm linh mình rơi vào chỗ sai trái (Mathiơ 16.23).
3) Tâm thần bị THƯƠNG TỔN của vợ Gióp (Gióp 2.9-10) đã khiến cho bà muốn CHỊU THUA và ngã chết.
4) Phaolô nói cho Timôthê biết rằng Đức Chúa Trời đã không ban cho chúng ta tâm thần sợ hãi (II Timôthê 1.7).
5) Phaolô có một tâm thần tôn giáo song sai trái trước việc nhìn bết Đấng Christ (Công Vụ các Sứ đồ 26.9-11).
c. Thế giới nầy đầy dẫy với nhiều tâm thần sai trái.
Không những các thế lực ma quỉ (Êphêsô 6.12), mà người nào sống toàn bộ đời sống của họ hiện đang bị các tâm linh sai trái ấy điều khiển!
d. Chúng ta cần ngược lại với việc có tâm linh sai trái.
1) Đaniên đã có một tâm linh rất xuất sắc (Đaniên 6.3).
2) Giôsép có Thánh Linh Đức Chúa Trời (Sáng thế ký 41.38).
3) Phierơ nói tới một tâm thần nhu mì và bình tịnh nơi phụ nữ (I Phierơ 3.3-4).
4) Phaolô nói cho Timôthê biết chúng ta có một tâm thần đắc thắng (II Timôthê 1.7; Hêbơrơ 2.14,15; I Giăng 4.18).
e. Đây là lý do tại sao Đức Chúa Trời ban cho chúng ta THÁNH LINH của Ngài.
1) Để thay thế cho hết thảy các thái độ sai trái.
2) Để thắng hơn mọi tâm thần bất khiết trong đời sống chúng ta.
3. Hãy chú ý các sự kiện sau đây:
a. Người Samari đã sai trái trong thái độ CỦA HỌ đối với Chúa Jêsus.
b. Thái độ sai trái ấy đã ảnh hưởng các thái độ của những SỨ ĐỒ.
1) Điều đó có khả thi không? Lẽ nào CÁC SỨ ĐỒ của mọi người không sống “trên” thái độ đó sao? Tất nhiên rồi!
2) Nhưng kể từ khi họ không sống được như thế, bạn không nghĩ rằng bất cứ ai trong CHÚNG TA đều thoải mái đối với thất bại nầy hay sao?
c. Các sứ đồ thậm chí chẳng nhận ra họ cũng có một thái độ xấu nữa.
d. Thái độ xấu của họ không được đề cập tới như nan đề về thái độ, mà là nan đề về THUỘC LINH!
4. Chúa Jêsus đáp trả thế nào đối với phản ứng của Giacơ?
a. Hãy nhớ, thái độ nầy mà Giacơ và Giăng đã có không phải là một việc tốt đâu!
b. Chính một linh khác đang vận dụng toàn bộ cách nhìn của họ về sự sống, và các hoàn cảnh, và những nan đề.
c. Nan đề thái độ nầy nghiêm trọng đến nỗi Chúa Jêsus biết rõ nếu Ngài không xử lý nó nhanh chóng, nó sẽ lan khắp tất cả các sứ đồ.
d. Chúa Jêsus mau mắn xử lý với nan đề của họ.
Đức Chúa Trời tìm cách đưa CHÚNG TA đến chỗ làm chủ mọi thái độ của chúng ta (tâm linh chúng ta) giống như chúng ta sẽ tìm cách làm chủ cái cưa xích, hay xe hơi, hoặc một khẩu súng đã lên nòng, hay một đứa trẻ thiếu kỷ luật!
Châm ngôn 16.32: “Người chậm nóng giận thắng hơn người dõng sĩ; Và ai cai trị lòng mình thắng hơn kẻ chiếm lấy thành”.
Châm ngôn 25.28: “Người nào chẳng chế trị lòng mình, khác nào một cái thành hư nát, không có vách ngăn”.
Châm ngôn 15.18: “Người hay giận gây điều đánh lộn; Nhưng người chậm nóng giận làm nguôi cơn tranh cãi”.
Thi thiên 103.8: “Đức Giê-hô-va có lòng thương xót, hay làm ơn, Chậm nóng giận, và đầy sự nhân từ”.
Giacơ 1.19: “Hỡi anh em yêu dấu, anh em biết điều đó: người nào cũng phải mau nghe mà chậm nói, chậm giận”.
Châm ngôn 14.29: “Kẻ nào chậm nóng giận có thông sáng lớn; Nhưng ai hay nóng nảy tôn lên sự điên cuồng”.
Châm ngôn 19.11: “Sự khôn ngoan của người khiến cho người chậm nóng giận; Và người lấy làm danh dự mà bỏ qua tội phạm”.
Châm ngôn 16.19: “Thà khiêm nhượng mà ở với người nhu mì, Còn hơn là chia của cướp cùng kẻ kiêu ngạo”.
Rôma 12.21: “Đừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy lấy điều thiện thắng điều ác”.
Từ những câu Kinh Thánh đó, những lẽ thật sau đây là rất hiển nhiên, rõ ràng:
1) Chúng ta sẽ trở thành xấu xa khi chúng ta để cho thái độ xấu của mình tỏ ra.
2) Chúng ta sẽ phạm tội khi chúng ta để cho các hành vi và thái độ xấu tác động vào thái độ và hành động CỦA CHÚNG TA.
3) Chúa rất chậm tỏ ra cơn giận của Ngài – vì vậy, chúng ta không có quyền hành động ngược lại với Ngài – nếu Ngài có ân điển. Thì chúng ta cũng phải như vậy.
5. Chúng ta cần phải sửa lại những trông mong không cần thiết chúng ta có đối với Chúa Jêsus.
a. Giacơ đã mong Chúa Jêsus muốn hủy diệt các kẻ thù của Ngài.
b. Giacơ đã mong Chúa Jêsus chỉ nghịch lại với tội lỗi của người khác, và sẽ bỏ qua tội lỗi của ông!
c. Sách Giacơ chép ở 1.22-26, phải thắng hơn tâm thần sai trái trong đời sống của chúng ta.
1) Chúng ta cần phải lắng nghe Lời của Đức Chúa Trời!
2) Chúng ta cần phải làm theo Lời của Ngài! – hãy sống theo Lời ấy, từng giờ trong từng ngày – không những khi dễ dàng hay tiện nghi.
3) Khi chúng ta nhìn thấy tội lỗi của mình được tỏ ra trong Quyển Sách nầy, chúng ta cần phải mau chóng ăn năn về điều đó, và cầu xin Đức Chúa Trời thay đổi chúng ta – MAU LÊN!
4) Điều nầy gồm cả việc Đức Chúa Trời dạy chúng ta phải KHỚP (kềm chế) lưỡi của mình nữa!
Phần kết luận:
Thi thiên 51.10: “Đức Chúa Trời ôi! xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch, và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng”.
Có ba thái độ mà người ta hay có:
1. Một số chẳng quan tâm – có nhiều người chẳng quan tâm đến Đức Chúa Trời, hay vâng theo Lời của Ngài.
2. Một số không biết – các thái độ của họ chẳng biết đến mọi sự ở chung quanh, giống như một người đang quay khẩu súng colt vậy.
3. Có người không muốn sống theo cách nầy!
Hãy nhớ, Giacơ KHÔNG sống theo cách nầy sau khi có sự chết, sự chôn và sự sống lại của Chúa Jêsus.
Sau khi ông nhìn thấy Chúa phục sinh, Giacơ không những trụ vững trong vai trò một môn đồ của Chúa Jêsus, mà còn sẵn sàng chịu chết cho Chúa của ông nữa! AMEN!
BẠN đang có tâm linh như thế nào vậy? Chồng của bạn, vợ của bạn thì như thế nào?
Có phải bạn đang có một kíp nổ ngắn chăng? Có phải bạn đang sống đầy sợ hãi và căng thẳng không? Có phải bạn đang sống rất tôn giáo – đầy dẫy các hành động ở bề ngoài, nhưng chẳng có gì nhiều ở bên trong?
Hãy xưng nó ra như tội lỗi, và cầu xin Chúa Jêsus đổi mới tâm linh ngay thẳng ở trong bạn!

TIÊN TRI ÊSAI



NHÂN VẬT KINH THÁNH
TIÊN TRI ÊSAI

Phần giới thiệu.
Tiên tri Êsai là một trong những vị tiên tri chủ lực trong Cựu Ước. Những lời tiên tri của ông bao phủ nhiều đề tài. Chúng nói đến cả hai nước Giuđa và Israel. Chúng cung ứng nhiều thông tin về sự đến lần thứ nhứt của Đấng Christ. Chúng cũng xử lý với lần đến thứ nhì và vương quốc thiên hi niên nữa. Phần thông tin của chúng ta nói về đời sống cá nhân của Êsai đã bị hạn chế, vì thế chúng ta sẽ xem xét những gì sẵn có và nhìn vào công việc của đời sống ông.
I. LAI LỊCH CỦA ÊSAI.
A. Chúng ta biết gì về danh tánh của ông?
Tên của ông có nghĩa là "Sự cứu rỗi thuộc về Đức Giêhôva" hay “Đức Giêhôva là Đấng Cứu Giúp”.
B. Chúng ta biết gì về gia đình của ông?
1. Tên của cha ông là Amốt theo Êsai 1.1. Đừng nhầm với tiên tri Amốt.
a. Amốt có ý nói tới lòng can đảm.
b. Có người tin rằng Amốt là bác của Vua Ôxia, nếu đây là sự thực, điều nầy sẽ khiến cho Êsai và Vua Ôxia là hai anh em họ.
2. Êsai có một vợ được kêu gọi làm nữ tiên tri ở Êsai 8.3.
3. Êsai có hai con trai.
a. Một người con trai là Sê-a-Gia-súp, có nghĩa là "dân sót sẽ trở về" (Êsai 7.3).
b. Người con trai kia là Ma-he-Sa-la-Hát-Bát (Êsai 8.1-4).
(1) Đây là cái tên dài nhất trong Kinh Thánh.
(2) Tên nầy có nghĩa là: "chiến lợi phẩm, mau lên" hay "xông lên chiếm lấy mồi".
4. Êsai đã nói ở 8.18 rằng ông và hai người con mà Đức Giêhôva đã ban cho đều là dấu và điềm bởi Đức Giêhôva.
Sự cứu rỗi đã được cung ứng cho Israel bởi Đức Giêhôva, nhưng họ sẽ sa ngã làm mồi cho kẻ thù như là kết quả của tội lỗi của họ. Tuy nhiên, một dân sót sẽ trở về.
C. Đâu là ơn kêu gọi và sứ mệnh của Êsai?
1. Ơn kêu gọi nguyên thủy của Êsai thì chẳng ai biết hết.
Quyển sách mở ra với một sự hiện thấy của vị tiên tri, vì thế nó đứng làm cớ cho thấy rõ ông đã là tiên tri rồi lúc bấy giờ.
2. Tuy nhiên, trong năm Vua Ôxia băng, Êsai đã có một sự hiện thấy tuyệt đối đã làm thay đổi đời sống ông khi Đức Giêhôva ủy thác sứ mệnh cho ông. Êsai 6.1-13
D. Thời điểm Êsai thi hành chức vụ trùng hợp với sự trị vì của bốn vị Vua xứ Giuđa (Êsai 1.1)
E. Chiều dài chức vụ của Êsai khoảng 60 năm.
F. Thời điểm chính xác và bối cảnh cái chết của Êsai không ai biết nhưng truyền khẩu cho rằng ông đã bị nhét vào khúc cây rỗng và bị cưa ra làm hai trong thời trị vì của Vua Manase
(con trai của Vua Êxêchia) (đối chiếu Hêbơrơ 11.37).
G. Êsai là tiên tri đồng thời với hai tiên tri Ôsê và Michê.
II. CÔNG TÁC VÀ CHỨC VỤ CỦA ÊSAI.
A. Êsai đã phục vụ như một văn sĩ.
1. Ông là tác giả của quyển sách mang tên ông. Sách của ông được xem là Kinh Thánh thu nhỏ lại.
a. Có 66 sách trong Kinh Thánh và 66 chương trong sách Êsai.
b. Có hai phân chia chính trong sách Êsai trùng hợp với Cựu và Tân Ước.
1) 39 chương đầu là lời phán xét.
2) 27 chương cuối là lời yên ủi.
2. Ông được cảm động cung ứng nhiều về lịch sử của Ôxia và Êxêchia (II Sử ký 26.22; 32.32; đối chiếu Êsai 36.1-39.8).
3. Tác phẩm của ông gồm những minh họa gây ấn tượng mạnh và ngôn ngữ nhiều hình bóng cung ứng ấn tượng sâu đậm về sứ điệp của Đức Chúa Trời (đối chiếu 1.13; 5.18; 12.1-6; 13.3).
4. Trong hình thức gốc (Hybálai) phần nhiều trong sách Êsai đã được viết ra theo thể thơ.
B. Êsai đã phục vụ như một phát ngôn viên trong xứ Israel.
1. Ông đã nói tới thời điểm khi Đức Giêhôva sẽ đem lại sự bình an. Đối chiếu 2.1-4.
2. Ông đoạn tuyệt với việc liên minh với nước ngoài. Đối chiếu 8.11-18
3. Ông công bố Đức Giêhôva là lớn hơn bất kỳ lực lượng nào của con người. Êsai 37.22…
C. Êsai đã phục vụ trong vai trò một nhà cải cách.
1. Ông đoạn tuyệt với chủ nghĩa hình thức. (1.10-16)
2. Ông đã xét đoán tội lỗi. (5.1-25)
3. Ông xét đoán các cấp lãnh đạo giả dối. (9.13-16; 28.1-8).
D. Êsai đã phục vụ như một tiên tri.
1. Ông đã nói trước tương lai của Israel và sự sụp đổ của các dân Ngoại (13.1-23.18).
2. Ông đã nói tiên tri về sự ra đời bởi nữ đồng trinh (7.14).
3. Ông đã thiết lập thần tính của Đấng Mêsi hầu đến (9.6-7).
4. Ông nói tới Cứu Chúa chịu thương khó (50.5-6; 53.1-12).
5. Ông mô tả kỷ nguyên và thời điểm vương quốc hầu đến (2.1-5.30).
6. Ông nói tới Israel nghe theo Tin Lành bằng các thứ tiếng khác (28.9-15).
7. Ông nói tới sự đến của tôi tớ Đức Giêhôva (nghĩa là Đấng Mêsi 42.1-7).
8. Ông loan báo chức vụ của Đấng Christ (61.1-3).
9. Ông loan báo chức vụ người tiền khu của Đấng Christ (40.3-5).
E. Êsai đã phục vụ như một nhà thần học.
1. Ông xử lý với sự tể trị và sự thánh khiết của Đức Chúa Trời (46.9-11; 57.15).
2. Ông xử lý với quyền chủ tể của Đức Chúa Trời (44.5-8).
3. Ông xử lý với nhu cần phải thanh tẩy tội lỗi (1.18; 59.16).
4. Ông xử lý với ân điển tha thứ (55.1-3).
5. Ông xử lý với nhu cần phải tỏ ra sự tôn kính đối với Đức Chúa Trời bằng những tham khảo của ông đối với "Đấng Thánh của Israel" (30;12; 43.14-17).
6. Ông xử lý với quyền phép giải cứu của Đức Chúa Trời (55.5-25).
7. Ông xử lý với nguồn gốc của Satan (14.12-14).
Phần kết luận.
Hãy dành thì giờ tuần lễ nầy để đọc sách Êsai và nhìn thấy thể nào Đức Chúa Trời đã sử dụng tôi tớ quan trọng nầy của Ngài! Đây sẽ là một ơn phước dành cho bạn đấy!

TIÊN TRI ÔSÊ



NHÂN VẬT KINH THÁNH
TIÊN TRI ÔSÊ

Phần giới thiệu:
Ôsê là một nhân vật cực kỳ thú vị. Chức vụ của ông là một trong những chức vụ có một không hai trong tất cả các tiên tri của Cựu Ước.
Ông được Đức Chúa Trời hướng dẫn, phải lấy một người nữ có tánh tình và tiếng tăm thật nghèo nàn. Đời sống gia đình của ông là một sứ điệp sống, minh họa cho mối quan hệ của dân sự Đức Chúa Trời với Cứu Chúa của họ.
Chức vụ của Ôsê đặc biệt được tán thưởng khi đối chiếu với chức vụ của một người đương thời với ông, là tiên tri A-mốt. Cả hai nhân vật nầy đều là tiên tri có dính dáng với vương quốc có 10 chi phái. Họ đã sống và phục vụ vào một thời điểm khi xứ sở của họ rất thịnh vượng từ cái nhìn vật chất. Xứ sở rất mạnh mẽ về mặt quân sự và kinh tế. Cả hai vị tiên tri đều lo xử lý với tội lỗi của dân sự, song sự tiếp cận của họ thì rất khác nhau.
A-mốt vật lộn với tội lỗi của họ bằng lời lẽ cứng rắn chuyên lên án và xét đoán. Ông nhấn mạnh rằng họ đã phá vỡ Luật pháp của Đức Chúa Trời và đang cưu mang sự xét đoán cho bản thân họ.
Ôsê đã rao giảng cùng một sứ điệp nhưng với một âm điệu toát ra ân điển và tình yêu thương. Ôsê đã xét đoán tội lỗi của họ từ chỗ họ là hạng người mà Đức Chúa Trời đã tìm kiếm cho chính mình Ngài và đã ban hiến tình yêu cho họ. Ông nói cho họ biết họ đã sống bất trung là dường nào khi chối bỏ tình yêu của Đức Chúa Trời. Ông cũng nói cho họ biết Đức Chúa Trời vẫn yêu thương họ và sẵn sàng đem họ vào lòng Ngài trở lại nếu họ chịu gạt bỏ tội lỗi đi mà trở lại với Ngài.
A-mốt là một con người của Luật pháp. Ôsê là con người của ân điển.
I. LAI LỊCH CỦA NHÂN VẬT ÔSÊ (Ôsê 1.1)
A. Tên Ôsê có nghĩa là “Đức Giêhôva là sự cứu rỗi”.
B. Ôsê là con trai của Bê-ê-ri, chúng ta chẳng biết chi về người nầy.
C. Ôsê đã phục vụ trong thời buổi Giêrôbôam II làm Vua Israel.
1. Ôsê bị quấy rối về tình trạng thuộc linh của dân sự và bắt đầu hành động.
2. Ông biết họ không thể tiếp tục thịnh vượng khi sống bất trung cùng Đức Chúa Trời.
D. Địa vị Ôsê giữa vòng các tiên tri của Đức Chúa Trời đã được thiết lập rõ ràng.
1. Ông được trưng dẫn nhiều hơn bất kỳ một tiểu tiên tri nào khác.
2. Ông được xem là tiên tri đầu tiên của ân điển.
3. Ông được gọi là: "tiên tri có tấm lòng buồn bực".
II. CUỘC HÔN NHÂN CỦA ÔSÊ VÀ GÔ-ME (Ôsê 1.2 – 3.5)
A. Đức Chúa Trời hướng dẫn Ôsê lấy vợ làm kỵ nữ (1.2)
1. Có thể tưởng tượng được Ôsê biết rõ Gô-me là một phụ nữ hấp dẫn còn trẻ tuổi, song tánh tình thì tồi bại.
2. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã hướng dẫn Ôsê theo một phương thức mà ông biết rõ đấy là ý chỉ của Đức Chúa Trời buộc ông phải lấy nàng làm vợ.
3. Cuộc hôn nhân nầy đã khiến cho nhiều người phải thắc mắc với Ôsê. Ông bị chỉ trích, phê phán rồi trở thành đối tượng cho nhiều câu chuyện rất nghiệt ngã.
4. Điều nầy khiến cho Ôsê phải có lòng tin rất lớn.
B. Ôsê lấy Gô-me làm vợ và sanh con cái (1.3-9)
1. Ông lấy Gô-me làm vợ và hiến cho nàng mọi sự ông có.
a. Nàng mang theo danh của ông.
b. Nàng đã có phần trong nhà cửa, tiếng tăm, sự ưu ái của Đức Chúa Trời giáng trên ông, và bất cứ điều chi thuộc về ông.
c. Nàng là vợ ông theo ý nghĩa đầy đủ nhất.
2. Đứa con đầu tiên ra đời cho Ôsê và Gô-me (1.3b-5)
a. Đứa con đầu tiên là con trai và được đặt tên là Gít-rê-ên.
b. Gít-rê-ên là nơi mà Giê-hu giết Giê-sa-bên gian ác kia cùng hết thảy những ai còn sót lại trong nhà A-háp. Đối chiếu II Các Vua 9.30-33;10.11
c. Danh Gít-rê-ên làm biểu tượng cho số phận chờ đợi những kẻ nào chối bỏ Đức Chúa Trời.
d. Trũng Gít-rê-ên là bối cảnh của nhiều trận đánh đổ máu và sẽ là bối cảnh của trận đánh At-ma-ghê-đôn.
3. Đứa con thứ hai ra đời cho Gô-me (1.6-7)
a. Đứa con không phải là con của Ôsê.
b. Đứa con là con gái và được đặt tên là Lô-ru-ha-ma.
c. Tên Lô-ru-ha-ma có nghĩa là không được thương xót, không được yêu thương, là đứa con không bao giờ biết đến tình thương của người cha.
d. Tên ấy làm biểu tượng cho thời điểm khi Israel sẽ không còn được thương xót bởi Đức Chúa Trời nữa và sẽ bị phó cho kẻ thù.
4. Đứa con thứ ba ra đời cho Gô-me (1.8-9)
a. Đứa con là con trai và được đặt tên là Lô-am-mi.
b. Lô-am-mi có nghĩa là “chẳng phải dân ta”.
c. Tên ấy làm biểu tượng cho cuộc lưu đày của dân sự Đức Chúa Trời ra khỏi xứ.
C. Tình trạng đáng buồn nơi hoàn cảnh của Ôsê và chiều sâu tình yêu của ông được tỏ ra (2.1)
1. Gít-rê-ên được ban cho một sứ điệp về anh chị em của nó (2.1-5)
a. Tên Lô-ru-ha-ma và Lô-am-mi được thay đổi.
(1) Lô-am-mi giờ đây là Am-mi (nghĩa là: dân ta).
(2) Lô-ru-ha-ma giờ đây là Ru-ha-ma (nghĩa là “được thương xót, được yêu thương, nhìn biết tình yêu thương của cha”)
b. Mấy đứa con được yêu cầu phải kiện mẹ chúng, là người đã lìa bỏ Ôsê vào thời điểm đó (2.2-5)
(1) Nàng bị yêu cầu phải cất bỏ sự dâm loạn và đường lối gian ác của mình (2.2b)
(2) Nếu nàng còn tiếp tục như đã có, nàng sẽ bị tước lột hết mọi phúc lợi của việc làm vợ của Ôsê (2.3)
(a) Nàng sẽ bị lột sạch giống như lúc ban đầu (nghĩa là, chẳng có gì hết)
(b) Con cái của nàng sẽ không được Ôsê chăm sóc (2.4-5)
i) Chúng là con cái của sự dâm loạn.
ii) Gô-me đã là kỵ nữ khi lấy Ôsê làm chồng.
2. Chiều sâu của sự Gô-me sa ngã vào trong tội lỗi đã được nói trước (2.6-13)
a. Nàng sẽ bị tình nhân mình chối bỏ (2.7a)
b. Nàng sẽ quyết định trở về cùng Ôsê (2.7b)
c. Nàng sẽ chịu khổ trong một thời gian (2.10)
3. Sự trở về với địa vị ban đầu của nàng đã được nói trước (2.14-23)
a. Nàng sẽ được tìm ra từ chỗ tà dâm của mình (2.14-15)
b. Sẽ có một sự thay đổi từ mối quan hệ nguyên thủy (2.16)
(1) Trong quá khứ, nàng đã gọi Ôsê là “Ba-ali” có nghĩa là “Chủ của tôi”.
(2) Trong mối quan hệ mới, nàng sẽ gọi ông là “Ishi” có nghĩa là “chồng tôi”.
c. Mối quan hệ mới sẽ trở thành mối quan hệ thường trực của tình yêu và sự bình an (2.17-23)
D. Ôsê đã mua Gô-me ra khỏi chỗ tà dâm của nàng.
1. Đức Giêhôva đã hướng dẫn ông tìm ra nàng (3.1)
2. Ông tìm gặp nàng đang bị bán như một nô lệ tại chợ bán đấu giá công khai (3.2)
a. Nàng đã xuống đến tận đáy bùn nhơ.
b. Ôsê đã trả giá để chuộc lấy nàng.
3. Ông đặt nàng vào một thời gian thử thách (3.3-4)
a. Nàng cần phải sống dưới kỷ luật.
b. Nàng chưa có thân phận làm vợ hay làm mẹ.
4. Thời kỳ sẽ đến khi nàng vui hưởng mọi phúc lợi của việc làm vợ cho Ôsê một lần nữa (3.5)
E. Câu chuyện nói tới Ôsê và Gô-me là câu chuyện biểu tượng cho mối quan hệ của Đức Chúa Trời và Israel.
Ôsê đã tiếp thu ý nghĩa của tình yêu chịu khổ của Đức Chúa Trời vì một dân tội lỗi.
Ông đã nhìn biết Đức Chúa Trời là sự yêu thương.
III. SỨC THÚC ĐẨY CHÍNH TRONG CHỨC VỤ CỦA ÔSÊ.
A. Ông chỉ ra ba hành động xấu xa chính yếu là bằng chứng của sự Israel bất trung cùng Đức Chúa Trời.
1. Ông chỉ ra tình trạng suy đồi của sự thờ phượng (4.6)
a. Họ chẳng có ý niệm gì về sự thờ phượng thiêng liêng cho Đức Chúa Trời.
b. Họ tìm cách hợp lý hóa rồi kết thúc trong sự thờ lạy Ba-anh.
2. Ông chỉ ra sự đồi bại hoàn toàn trong chính sách quốc gia của họ (7.10-11)
3. Ông chỉ ra sự đồi bại về mặt đạo đức.
B. Những việc quan trọng nhất cần phải tiêp thu từ sứ điệp của Ôsê.
1. Tôn giáo phải là bề trong và thuộc linh.
2. Đức Chúa Trời của lẽ phải là Đức Chúa Trời của mọi tình yêu chịu khổ, và trong sự thực nầy cuộc phấn đấu tới lui giữa công bình và thương xót được chiếu ra.
3. Tội lỗi là chống nghịch lại tình yêu thương của Đức Chúa Trời.
4. Mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và dân sự Ngài là mối quan hệ mật thiết.
5. Tình yêu phục hồi lại mối tương giao đã gãy vỡ.

TIÊN TRI AGHÊ



NHÂN VẬT KINH THÁNH
TIÊN TRI AGHÊ
Phần giới thiệu
:
Hết thảy chúng ta đều đối diện với áp lực, đòi hỏi, trông mong, và nhiều việc khác dường như ụp tới chúng ta từ mọi phía và đầy ắp mọi kế hoạch của chúng ta.
Dù vậy, ai nấy đều mong muốn chúng ta phải làm một việc gì đó – gia đình, sở làm, trường học, câu lạc bộ, Hội Thánh của chúng ta, bạn kể ra nữa đi.
Không bao lâu thì chúng ta thấy mình chẳng có đủ cả thì giờ và năng lực. Chúng ta thường xuyên lao vào cuộc sống dự phần vào những việc khẫn cấp và tức thì đang có ở trước mặt mình, song thường thì chúng ta thấy mình đã chừa lại phần việc quan trọng nhất chưa làm xong.
Nan đề của chúng ta dường như là một chuỗi đòi hỏi đang đặt ở trước mặt mình. Hoặc có thể chúng ta nghĩ rằng không cứ cách nào đó chúng ta đang thiếu sót trong việc sắp đặt kế hoạch. Tuy nhiên, nan đề của chúng ta thực sự đang nằm trong những gì chúng ta đánh giá cao độ. Giá trị là những việc nào thực sự là quan trọng đối với chúng ta!
Mọi giá trị thực sự của chúng ta và những gì thực sự là giá trị có thể là hai việc hoàn toàn khác nhau!
Mọi giá trị và tiềm năng của chúng ta được phản ảnh qua cách chúng ta sử dụng tài nguyên của mình – tài nguyên về thì giờ, ta-lâng, của cải và sức lực. Thường thì mọi hành động của chúng ta hay mâu thuẫn với lời nói của mình. Chúng ta nói rằng Đức Chúa Trời là số 1, nhưng rồi chúng ta đẩy Ngài xuống hàng thứ yếu trên bảng danh mục “phải làm theo” của chúng ta. Thực vậy, mọi hành động của chúng ta tỏ ra điều đó, Ngài không phải là số 1.
Dân sự của Đức Chúa Trời có rất nhiều tiềm năng đặt không đúng chỗ. Aghê là tiếng phán của Đức Chúa Trời kêu gọi nhiều người nam người nữ trong thời của ông phải biết đặt mọi tiềm năng của mình sao cho đúng chỗ. Aghê vốn biết rõ điều chi là quan trọng và điều chi cần phải được làm theo, và ông thách thức dân sự của Đức Chúa Trời đáp ứng lại.
I. LAI LỊCH CỦA AGHÊ:
Tên của Aghê có nghĩa là: “sanh ra trong một ngày lễ”. Điều nầy ám chỉ rằng ông ra đời trong một ngày Lễ. Mọi sự chúng ta biết về ông là qua câu thứ nhứt của sách nầy (câu 1).
Ông đã nói tiên tri vào năm thứ hai của Vua Đariút, Vua xứ Ba tư, 16 năm sau Si-ru phát ra chiếu chỉ cho phép tái thiết Đền Thờ.
Là một tiên tri, ông sống đồng thời với tiên tri Xachari.
Exơra 5.1: “Vả, tiên tri A-ghê và tiên tri Xa-cha-ri, con của Y-đô, nhân danh Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên nói tiên tri cho các người Giu-đa tại xứ Giu-đa và ở Giê-ru-sa-lem”.
II. CHỨC VỤ CỦA AGHÊ.
Người sau cùng trong dân Giu-đa bị lưu đày sang Babylôn trong cuộc xâm lược thứ ba vào năm 586TC và thành Jerusalem cùng Đền Thờ, là biểu tượng nói tới sự hiện diện của Đức Chúa Trời với dân sự Ngài, đã bị hủy diệt bởi các lực lượng của Nêbucátnếtsa.
Sau khi người Mêđi Batư đánh bại Babylôn, Si-ru đã cho phép các phu tù Do thái trở về xứ Giuđa và tái thiết Đền Thờ của họ vào năm 538TC.
Đức Chúa Trời đã ban cho người Do thái nhiệm vụ phải hoàn tất Đền Thờ tại thành Jerusalem khi họ trở về từ cuộc phu tù.
Dân sự đã trở về thành Jerusalem vào năm 536TC để bắt đầu công việc tái thiết lại Đền Thờ. Khi những phu tù đầu tiên trở về từ xứ Babylôn, họ bắt tay ngay vào việc tái thiết đền thờ. Mặc dù họ khởi sự với những thái độ đúng đắn, họ đã sa vào lại lối sống sai lầm. Sau khi làm công việc ấy trong một thời gian ngắn, công việc phải dậm chân tại chỗ.
Sau 15 năm họ vẫn chưa hoàn tất được công việc. Công việc dang dở giữa chừng trong khi dân sự lo xây dựng và sống trong những ngôi nhà xinh đẹp. Dân sự của Đức Chúa Trời vốn quan tâm nhiều tới việc xây sựng nhà riêng của họ hơn là lo hoàn tất công việc của Đức Chúa Trời. Vì vậy, Đức Chúa Trời đã phái Aghê đến với người Do thái vào năm 520TC để bảo họ phải sắp xếp lại trình tự ưu tiên của họ!
Aghê đã khích lệ người Do thái phải lo hoàn tất Đền Thờ của Đức Chúa Trời. Ông cảnh cáo họ về việc đặt của cải và công ăn việc làm của họ trên trước Đức Chúa Trời. Ông đã khích lệ họ khi họ làm việc và ông bảo đảm với họ về sự hiện diện thiêng liêng của Thánh Linh Đức Chúa Trời ở với họ, ông quyết chắc với họ về sự đắc thắng sau cùng, và ông cam đoan với họ về hy vọng Đấng Mêsi chắc chắn sẽ trị vì.
Là một tiên tri, ông đã rao giảng sự công bình và nói trước cuộc tương lai. Là một con người, ông sống rất đơn sơ, mạnh mẽ trong đức tin và dạn dĩ trong sự trông cậy. Ông thúc giục dân sự phải làm việc và phải mạnh mẽ.
Ông bảo đảm với họ rằng khi họ khởi sự xây dựng Đền Thờ, Đức Chúa Trời sẽ khởi sự chúc phước cho họ.
Không giống như các tiên tri trước đây mà chúng ta đã xem xét qua, Aghê (cùng với Xachari) đã có một chức vụ rất kết quả.
Exơra 6.14: “Ấy vậy, các trưởng lão của dân Giu-đa bắt tay cất lại đền thờ, công việc được may mắn, y lời tiên tri của tiên tri A-ghê, và của Xa-cha-ri, con trai của Y-đô. Vậy, chúng làm xong công việc cất đền thờ, tùy theo mạng lịnh của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và theo chiếu chỉ của Si-ru, Đa-ri-út, và At-ta-xét-xe, vua nước Phe-rơ-sơ”.
Sứ điệp của Aghê là một sứ điệp có cần trong thời đại của chúng ta cũng y như sứ điệp ấy rất cần trong thời của Aghê.
Chúng ta đang sống vào một thời điểm mà đại đa số những ai xưng mình là Cơ đốc nhân đều chú trọng vào việc chi khác trong thế gian hơn là công việc của Đức Chúa Trời.
Biến nhiều việc khác ra quan trọng hơn công việc của Đức Chúa Trời là điều rất dễ dàng.
Nhưng Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải nếm trải và thực thi công việc mà Ngài đã kêu gọi chúng ta phải lo làm (nghĩa là, mang lấy Sứ Mệnh Cao Cả).
Khi chúng ta bắt đầu làm lại công việc của Đức Chúa Trời, khi ấy Đức Chúa Trời sẽ chúc phước lại cho chúng ta.
Mathiơ 6.33: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa”.
Chúng ta cần phải để lòng mình trên những gì chúng ta biết là đúng đắn và tốt lành rồi làm theo, làm theo việc ấy!
Chúng ta cần phải sắp đặt mọi thứ tự ưu tiên của chúng ta!
Khi Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một phần việc, chúng ta cần phải nhớ rằng mọi tài nguyên của Ngài là vô hạn.
Đức Chúa Trời sẽ vùa giúp chúng ta làm theo những gì Ngài kêu gọi chúng ta phải lo làm bằng cách ban cho chúng ta sự khích lệ trên đường.
III. LỜI TIÊN TRI CỦA AGHÊ.
A. Lời kêu gọi phải tái thiết Đền thờ (1.1-15)
1. Sứ điệp nói tới lời quở trách nghiêm khắc (1.1-11)
Nan đề của xứ Giu-đa là xáo trộn những thứ tự ưu tiên.
Đền Thờ là tâm điểm mối tương giao của xứ Giu-đa với Đức Chúa Trời, nhưng nó vẫn còn nằm trong đống đổ nát.
Thay vì thế, dân sự đặt mọi năng lực của họ vào việc tái thiết và làm đẹp nhà cửa riêng của họ.
Nhưng, họ càng lao động khó nhọc cho bản thân mình, họ càng kiếm được ít, vì họ chẳng biết gì về đời sống và những thứ tự ưu tiên thuộc linh của họ.
Điều nầy đã không đến với họ như một sự ngạc nhiên vì Môi-se đã nói điều nầy sẽ xảy ra ở Phục truyền luật lệ ký 28.37-46.
Chính việc đó đang xảy ra cho chúng ta nếu chúng ta không sống cẩn thận!
Những thứ tự ưu tiên của chúng ta có quan hệ tới việc làm, gia đình và công việc của Đức Chúa Trời thường bị bỏ sót.
Công ăn việc làm, nhà cửa, kỳ nghỉ, cùng những sinh hoạt lúc rảnh rang không được sắp cao hơn trên bảng danh mục so với những công việc của Đức Chúa Trời.
Đâu là việc quan trọng nhất đối với bạn? Đời sống bạn đang tỏ ra điều chi là quan trọng nhất vậy? Chúng ta phải đặt Đức Chúa Trời ở trước tiên và rồi Ngài sẽ tiếp trợ cho từng nhu cần của chúng ta!
Nếu chúng ta hạ thấp Ngài so với bất kỳ một vị thế nào khác, mọi nổ lực của chúng ta sẽ trở thành hư không.
Chỉ quan tâm đến mọi nhu cần theo phần xác của chúng ta khi bất chấp mối tương giao của chúng ta với Đức Chúa Trời sẽ dẫn đến đổ nát trong đời sống của chúng ta!
2. Sứ điệp nói tới sự yên ủi và sự khen ngợi (1.12-15)
Chúng ta thấy rằng từ sứ điệp thứ nhứt của Aghê, cơn phục hưng đã đến.
Dân sự đã bắt đầu tái thiết Đền Thờ đúng 23 ngày sau sứ điệp thứ nhứt của Aghê. Khi cơn phấn hưng đến, tinh thần của dân sự Đức Chúa Trời được khuyến khích.
Khi cơn phấn hưng đến, công việc được thực thi.
Sứ điệp thứ nhì của Aghê khi cơn phấn hưng đến là đây: “Đức GIÊHÔVA phán: Ta ở cùng các ngươi!”
Đức GIÊHÔVA đã hiện diện với họ mọi lúc mọi khi, nhưng giờ đây Ngài đã ở VỚI họ! (nghĩa là, Đức GIÊHÔVA đã ở đàng sau những gì họ đang lo làm! Sự hiện diện tỏ tường của Ngài đã ở VỚI họ!)
Khi cơn phấn hưng đến, Đức GIÊHÔVAVỚI chúng ta! AMEN!
B. Sự khích lệ phải hoàn tất Đền Thờ (2.1-23)
1. Sứ điệp khích lệ (2.1-9)
Sứ điệp thứ ba của Aghê đã đến trong kỳ lễ Lều Tạm (diễn ra vào tháng 10 năm 520TC).
Những người lớn tuổi có thể nhớ đến vẻ đẹp tuyệt vời và sự vinh hiển của Đền Thờ của Vua Solomon đã bị hủy diệt.
Nhiều người trong dân sự bị ngã lòng vì họ đã nhìn thấy Đền Thờ mà họ đang xây cất không bằng được với đền thờ của Vua Solomon.
Nhưng chúng ta thấy Aghê đã khích lệ họ với sứ điệp của Đức Chúa Trời rằng vẻ oai nghi của Đền thờ nầy sẽ trổi hơn vẻ oai nghi của đền thờ trước kia.
Phần quan trọng nhất của Đền Thờ là sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Năm trăm năm sau, Đức Chúa Jêsus Christ đã đi dạo trong hành lang của đền thờ.
Hãy chú ý sự khích lệ của Chúa là phải mạnh dạn và làm công việc!
Êphêsô 6.10: “Vả lại, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài”.
I Côrinhtô 15.58: “Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu”.
Đức Chúa Trời muốn thay đổi thế giới qua chúng ta. Ngài đã ban cho chúng ta một công việc để lo làm cho Ngài! Thời điểm đã đến cho chúng ta phải sắp xếp mọi trình tự ưu tiên cho đúng đắn và rồi phải mạnh dạn mà làm công việc, vì Đức Chúa Trời đang ở với chúng ta!
Bất luận chúng ta đang đối diện với những khó khăn nào hoặc công việc của chúng ta làm cho Ngài có trắc trở như thế nào đi nữa, Thánh Linh của Đức Chúa Trời đang ở với chúng ta!
2. Sứ điệp nói tới sự luyện lọc và phước hạnh (2.10-19)
Sứ điệp nầy đã được rao ra vào tháng Chạp năm 520TC. Sứ điệp ở đây rất rõ ràng. Sự nên thánh không làm trầy xước trên người, nhưng sự ô uế sẽ làm cho trầy xước!
Giờ đây, dân sự đang bắt đầu vâng theo Đức Chúa Trời, Ngài hứa khích lệ và làm cho họ được thịnh vượng, nhưng họ cần phải hiểu rõ các sinh hoạt trong Đền Thờ sẽ không tẩy sạch tội lỗi của họ.
Chỉ có sự ăn năn và vâng lời mới có thể làm được điều đó!
Nếu chúng ta khăng khăng chạy theo những việc làm sai trái và tội lỗi hoặc cố tình giữ chặt các mối quan hệ gần gũi với hạng người tội lỗi, chúng ta sẽ bị ô uế.
Tội lỗi và những thái độ ích kỷ làm ô uế từng thứ mà chúng chạm đến. Thậm chí những việc lành đã được làm ra cho Đức Chúa Trời đã bị vấy bẫn bởi các thái độ tội lỗi. Phương cứu chữa duy nhứt là sự luyện lọc của Đức Chúa Trời!
Lối sống thánh khiết sẽ đến chỉ khi chúng ta được mặc lấy quyền phép bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời!
Ở các câu 18-19, chúng ta thấy rằng dân sự đã đặt nền của Đền Thờ, nhưng cơn hạn hán sự phán xét thuộc linh do sự bất tuân trước đây đã tác động rồi vào mùa gặt trong năm đến nỗi kho vựa của họ chỉ là trống trơn do mùa màng thất bát.
Họ không có những sản phẩm chủ lực hay hàng hóa đắt tiền. Họ cần phải cẩn thận suy nghĩ về sự việc nầy. Nhưng Chúa hứa rằng mọi việc sẽ ra khác biệt.
Giờ đây, Ngài sẽ chúc phước cho họ. Sự họ trung tín vâng lời cứ liên tục tái thiết sẽ giúp cho họ kinh nghiệm ơn phước của Đức Chúa Trời.
Thường thì Đức Chúa Trời gửi sự khích lệ và tán thưởng của Ngài kèm theo những bước chơn vâng phục trước tiên của chúng ta. Ngài rất sốt sắng muốn chúc phước cho chúng ta!
3. Sứ điệp nói tới sự bảo đảm (2.20-23)
Sứ điệp sau cùng của Aghê là nới với Xôrôbabên, tổng đốc xứ Giu-đa.
Đây là lời tiên tri nói tới Đấng Mêsi về Xôrôbabên.
Giống như dân sự cần sự khích lệ để lo tái thiết, Xôrôbabên cần sự khích lệ để lãnh đạo dân sự nầy.
Ở các câu 21-22, Đức GIÊHÔVA đã phán về sự phán xét trong tương lai về các dân Ngoại sắp đến.
Ở câu 23, Đức GIÊHÔVA phán Ngài sẽ bắt lấy Xôrôbabên và khiến ông trở thành một ấn tín. Một chiếc nhẫn có dấu ấn đã được sử dụng để bảo đảm uy quyền và tính chơn thật của một bức thư. Nó góp phần như một chữ ký khi ấn dấu sáp vào một tài liệu thành văn.
Đức Chúa Trời đã tái khẳng định và bảo đảm lời hứa của Ngài về một Đấng Mêsi qua dòng dõi của David (Mathiơ 1.12).
Đức Chúa Trời kết thúc sứ điệp của Ngài cho Xôrôbabên với sứ điệp nầy: “Ta đã chọn ngươi!”
Một lời công bố thể ấy cũng thuộc về chúng ta nữa! Những ai trong chúng ta đã được cứu đều được Đức Chúa Trời lựa chọn!
Êphêsô 1.4: “trước khi sáng thế, Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng Christ, đặng làm nên thánh không chỗ trách được trước mặt Đức Chúa Trời”.
Sự thực chúng ta được Đức Chúa Trời lựa chọn sẽ khiến chúng ta nhìn thấy giá trị của mình trong ánh mắt của Đức Chúa Trời và tác động chúng ta phải lo làm việc cho Ngài!
Khi Satan hạ bạn xuống, hãy tự nhắc nhớ rằng Đức Chúa Trời đã lựa chọn bạn đấy.
Phần kết luận:
Có vài bài học chúng ta có thể tiếp thu từ quyển sách nầy:
1. Chúng ta phải nhìn thấy mối nguy hiểm của sự sa vào chỗ tự mãn!
Chúng ta có thể bắt đầu ngay trong Chúa, nhưng chúng ta phải biết dè dặt khi kinh nghiệm ơn phước của Ngài!
2. Chúng ta phải nhìn thấy thời điểm làm công việc cho Đức Chúa Trời đang ở trong tầm tay!
3. Chúng ta phải nhìn thấy rằng ơn phước của Đức Chúa Trời phụ thuộc vào việc chúng ta vâng theo Đức Chúa Trời!
4. Chúng ta phải thấy rằng Đức Chúa Trời sẽ thể hiện ra các lời hứa của Ngài về Đức Chúa Jêsus Christ! Đức Chúa Trời là thành tín!

TIÊN TRI HABACÚC



NHÂN VẬT KINH THÁNH
TIÊN TRI HABACÚC
Phần giới thiệu
.
Chúng ta tiếp tục phần nghiên cứu về các tiên tri trong Cựu Ước tối nay. Đây là vị tiên tri thứ 18 mà chúng ta đã xem xét. (Ông là tiên tri thứ 19 nếu bạn xem nghiên cứu Đaniên ở chi tiết dân sự trong sách Đaniên trước khi chúng ta khởi sự phần nghiên cứu nầy về các tiên tri).
Tối nay chúng ta nhìn vào tiên tri Habacúc, một trong các tiểu tiên tri, ông đã viết sách nầy mang tên ông.
Tên của ông có nghĩa là. “vòng tay ôm chặt của tình yêu thương” hay “ông đang vòng tay ôm lấy” hoặc “vòng tay ôm mạnh mẽ của Đức Chúa Trời”.
Chúng ta không biết điều chi về bố mẹ hay nơi chào đời của Habacúc.
Ông là tiên tri của xứ Giuđa, Vương quốc phía Nam, và có người tin ông thuộc chi phái Lêvi và thậm chí là một ca viên trong đền thờ dựa theo 3.19. Habacúc tự cho mình là tiên tri ở 3.1 và là tiên tri sau cùng trước khi thành Jerusalem bị hủy diệt.
Truyền khẩu các Rabi cho rằng ông là con trai của người đàn bà Su-nem mà Êlisê đã làm cho sống lại ở II Các Vua 4.16-37. Nhưng chúng ta không có một cơ sở nào theo Kinh Thánh để xác quyết phần truyền khẩu đó.
Habacúc đã sống trong xứ Giuđa suốt sự trị vì của con trai Giô-sia, là Giê-hô-gia-kim, đã được nhắc tới ở II Các Vua 23.36-24.5.
Ông đã nói tiên tri về sự đến của người Ba-by-lôn trên xứ Giuđa. Cuộc bao vây đã diễn ra vào năm 606TC cùng với một cuộc xâm lược khác vào năm 597TC, trước khi xứ Giuđa bị hủy diệt trong cuộc xâm lược sau cùng vào năm 586TC. Cụm từ: “trong ngày các ngươi”, đã được thấy ở Habacúc 1.5 chỉ ra rằng ông đã nói tiên tri một thời gian suốt thế hệ có liên quan tới cuộc xâm lược đầu tiên, điều nầy sẽ khiến ông là một người đồng thời với tiên tri Giêrêmi.
Với sự suy đồi của A-si-ri, Babylôn đã trở nên quyền lực quản trị cấp thế giới.
Từ sách nầy do Habacúc viết, chúng ta thấy rằng ông là một tiên tri hay thắc mắc. Ông muốn biết “Tại sao?”“Làm sao?” Chúng ta sẽ thấy những thắc mắc của ông tối nay và những giải đáp đã được đưa ra cho ông.
Trong khi những sách tiên tri khác đã đưa Lời của Đức Chúa Trời đến cho dân chúng, sách nầy trước tiên đưa những thắc mắc của dân chúng đến với Đức Chúa Trời và kế đó nó tải những giải đáp của Đức Chúa Trời ngược về cho dân chúng.
I. MỐI NGHI NGỜ CỦA HABACÚC.
A1. Thắc mắc thứ nhứt của ông (1.1-4)
Habacúc đã đau lòng do sự đồi bại mà ông nhìn thấy ở chung quanh ông. Thời thế của ông là thời buổi của sợ hãi, lấn lướt, bắt bớ, không có luật pháp, và phi đạo đức.
Habacúc rất bối rối do sự dường như dửng dưng của Đức Chúa Trời trước hết thảy mọi điều ác trong thời của ông. Ông không hiểu được tại sao Đức Chúa Trời dường như chẳng làm gì hết về tình trạng gian ác trong xã hội. Cho nên, chúng ta thấy ở đây ông đã đổ hết tấm lòng ra trước mặt Đức Chúa Trời.
Ngày nay, tội lỗi và sự bất công rất nhiều đang hiện hữu quanh chúng ta, nhưng chúng ta chẳng bận tâm mấy, chúng ta nghi ngờ Đức Chúa Trời hoặc nổi loạn chống nghịch Ngài như nhiều người đang làm hôm nay.
Chúng ta phải xem xét sứ điệp mà Đức Chúa Trời đã ban cho Habacúc và công nhận rằng Đức Chúa Trời vốn có những chương trình và các mục đích lâu dài để tỏ ra ý chỉ của Ngài.
Chúng ta phải công nhận rằng Đức Chúa Trời vẫn nắm quyền tể trị và Ngài là một Đức Chúa Trời nhơn từ và công bình, dù chúng ta không hiểu tại sao Ngài lại hành động theo cách Ngài hành động.
A2. Giải đáp của Đức GIÊHÔVA cho thắc mắc thứ nhứt (1.5-11)
Đức Chúa Trời đáp trả cho các thắc mắc và mối quan tâm của Habacúc bằng cách phán rằng Ngài sẽ thực thi những hành động rất khó mà tin được, mọi hành động ấy sẽ làm vinh hiển cho Ngài. Đâu là những việc khó tin đó?
1. Xứ Giuđa, dù rất thịnh vượng và độc lập (thậm chí ở điểm độc lập của Đức Chúa Trời), đã trở thành một xứ chư hầu chỉ trong một đêm.
2. Ai cập, là quyền lực cấp thế giới trong nhiều thế kỷ, đã bị chà nát gần như qua một đêm.
3. Ninive, thủ phủ của Đế quốc A-si-ri hùng cường, đã bị cướp phá và hủy diệt hoàn toàn đến nỗi người ta đã quên không biết nó ở đâu nữa (đối chiếu lời tiên tri của Nahum)
4. Người Canh-đê (hay người Babylôn) sẽ dấy lên đỉnh quyền lực.
Dù những lời nầy gây sửng sốt và thậm chí là khó tin đối với Habacúc (và dân chúng), họ đã nhìn thấy chúng xảy ra đúng theo thế hệ của họ.
Khi mọi hoàn cảnh quanh chúng ta gần như khó gánh vác nổi, đôi khi chúng ta lấy làm lạ không biết Đức Chúa Trời có quên chúng ta hay không!?! Nhưng chúng ta cần phải nhớ rằng Ngài đang tể trị. Ngài vẫn nắm quyền tể trị. Ngài có một chương trình và sẽ xét đoán những kẻ nào sống bất công chiếu theo thời điểm của Ngài. Ngài có thể chọn đem sự việc đến mau hay chậm.
Chúng ta cần phải bằng lòng chấp nhận điều nầy và chờ đợi thời điểm của Đức Chúa Trời.
B1. Thắc mắc thứ hai (1.12-17)
Ở đây, chúng ta thấy Habacúc rất bối rối và e sợ Đức Chúa Trời sẽ dùng một dân còn gian ác hơn cả dân Giuđa để làm sự sửa phạt cho xứ Giuđa. Lẽ nào điều nầy chẳng ăn nhập gì với chúng ta, có phải không?
Sự thể giống như Đức Chúa Trời đang sử dụng Osama Bin Laden và phe Taliban để sửa phạt nước Mỹ vậy.
Sự thể gần như chẳng ăn nhập gì với hầu hết mọi người, vì vậy họ cùng nhau xua bỏ ý niệm nầy.
Hãy hiểu rằng người Babylôn không biết họ đã được Đức Chúa Trời sử dụng để giúp xứ Giuđa quay trở lại với Ngài. Thực vậy, người Babylôn kiêu ngạo trong những lần chiến thắng của họ sẽ là dịp cho sự sụp đổ của họ.
Châm ngôn 16.18: “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau, và tánh tự cao đi trước sự sa ngã”.
Giống như sự kiêu ngạo của xứ Giuđa đã khiến cho xứ ấy phải sụp đổ, cũng một thể ấy sự kiêu ngạo của Babylôn sẽ làm cho nó phải suy tàn.
Phạm tội và gian ác là tự hủy diệt. Đôi khi mọi sự Đức Chúa Trời đang làm là khiến cho những ai phạm tội phải gánh chịu mọi hậu quả của chính tội lỗi họ. Nhưng cần phải nói rằng, phải hiểu rõ những kẻ gian ác không hề vượt quá quyền tể trị của Đức Chúa Trời. Ngài vẫn đang tể trị!
Đức Chúa Trời có thể sử dụng bất cứ công cụ bất thường nào Ngài chọn để điều chỉnh hay sửa phạt những kẻ phạm tội.
Khi chúng ta đáng bị sửa phạt, hình phạt, hay chỉnh đốn, làm sao chúng ta lại than phiền về “roi vọt” mà Đức Chúa Trời đang sử dụng để đánh chúng ta? (Dù đó là giông bão, lốc xoáy, lụt lội, cháy rừng, hạn hán, dịch lệ, hay một dân gian ác).
B2. Giải đáp của Đức Chúa Trời cho thắc mắc thứ nhì (2.1-20)
Câu 1 – Người canh và tháp canh thường được các tiên tri sử dụng để chỉ ra thái độ trông đợi (Êsai 21.8, 11; Giêrêmi 6.17; Êxêchiên 3.17)
Vì vậy, câu 1 là bức họa nói tới thái độ của Habacúc về sự thức canh kiên nhẫn và trông đợi đáp ứng của Chúa.
Câu 2… – Hai thắc mắc của Habacúc là:
1. Điều ác sẽ thắng hơn bao lâu? (1.2-3)
Đức Chúa Trời phán rằng sự phán xét, dù nó chậm đến, vẫn là chắc chắn.
2. Tại sao Babylôn được chọn để sửa phạt xứ Giuđa? (1.13)
Dù Đức Chúa Trời sử dụng Babylôn nghịch lại xứ Giuđa, Ngài vốn biết rõ mọi tội lỗi của Babylôn và sẽ thăm phạt nó đúng kỳ.
Câu 3 – Mọi sự quanh chúng ta ngày nay điều ác dường như có bàn tay thượng phong trên thế giới. Giống như Habacúc, chúng ta đôi lúc có thể nổi giận hay ngã lòng khi chúng ta nhìn thấy điều ác đang tiếp diễn.
Habacúc đã than phiền với Đức Chúa Trời về sự ấy. Giải đáp của Đức Chúa Trời cho ông cũng chính là giải đáp mà Ngài muốn ban cho chúng ta: “Phải kiên nhẫn! Ta sẽ thực hiện mọi chương trình của chúng ta theo đúng kỳ định!”
Kiên nhẫn đâu phải là dễ dàng, có phải không? Nhưng nó sẽ giúp chúng ta nhớ lại rằng Đức Chúa Trời vốn ghét bỏ tội lỗi còn nhiều hơn chúng ta nữa!
Sự sửa phạt dành cho tội lỗi chắc chắn sẽ xảy đến. Chúng ta đừng thất vọng. Thay vì thế, chúng ta cần phải tin cậy Đức Chúa Trời thật trọn vẹn, dầu khi chúng ta không hiểu lý do tại sao có những việc xảy ra theo cách như thế.
Câu 4 – Người Babylôn rất gian ác và họ tin cậy vào bản thân họ, và họ sẽ sụp đổ. Nhưng người công bình sống vì cớ đức tin của họ và tin cậy nơi Đức Chúa Trời!
Phaolô trưng dẫn câu nầy ở Rôma 1.17 và ở Galati 3.11 và tác giả thơ Hêbơrơ trưng dẫn câu ấy ở Hêbơrơ 10.38 ngay trước chương nói tới “Đại Sảnh Đức Tin”.
Câu nầy có thể là sự nâng đỡ cho bất cứ một Cơ đốc nhân nào đang nếm trải một thời kỳ khó khăn trong đời sống của họ mà không nhìn thấy đâu là cuối cùng. Chúng ta phải tin cậy Đức Chúa Trời với đời sống của chúng ta và nhìn bết rằng Ngài đang lèo lái mọi sự tùy theo ý quyết đoán của Ngài.
Các câu 4-8
Như chúng ta đã nói, Babylôn rất kiêu căng và tin cậy vào bản thân và sức mạnh quân sự của mình. Nó sống để làm thỏa mãn mọi tư dục riêng của nó với phí tổn của những kẻ mà nó đã chinh phục. Nhưng chính những tội lỗi nầy sẽ dấy lên để xét đoán nó, và những kẻ phu tù mà nó ngược đãi chắc chắn sẽ cướp lột và chế nhạo nó. Sự công bình sẽ đến, nhưng nó sẽ đến cách từ từ.
Các câu 9-13
Sự giàu có của Babylôn đã đến từ tai họa của các dân khác. Những sự giàu có nầy sẽ trở thành tro bụi vô giá trị trong tay của họ.
Các câu 14-20
Thờ lạy hình tượng đối với nhiều người dường như là một tội lỗi mà xã hội hiện đại của chúng ta chẳng quan tâm mấy. Nhưng thờ lạy hình tượng không những chỉ là cúi xuống trước các thần tượng. Mà nó còn tin cậy vào những gì một người đã tạo ra bằng hai bàn tay của mình rồi vì lẽ đó, tin cậy vào quyền lực riêng của một người giống như đấng tạo hóa và đấng nâng đỡ vậy. (Triết lý của con người, là thứ đang thịnh hành trong thời buổi của chúng ta, đã đánh giá cái tôi mình là thần linh).
Nếu chúng ta nói chúng ta đang thờ lạy Đức GIÊHÔVA, nhưng chúng ta đặt lòng tin cậy vào cái tôi, vào tài khoản ngân hàng, vào nhà cửa, công ăn việc làm, hay thậm chí các thứ của cải khác, khi ấy chúng ta là những kẻ thờ lạy hình tượng.
Chúng ta phải tin cậy Chúa, chớ không tin cậy vào những thứ chúng ta đã làm ra với hai bàn tay của mình.
II. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA HABACÚC (Habacúc 3)
Habacúc đã ngợi khen Đức GIÊHÔVA vì đã trả lời cho các thắc mắc của ông. Điều ác sẽ không thắng hơn cho đến đời đời được.
Ông đã nhìn thấy Đức GIÊHÔVA vẫn đang nắm quyền tể trị và Ngài đáng tin một cách trọn vẹn để minh chứng những ai đang trung tín đối với Ngài. Chúng ta phải chờ đợi nơi Ngài!
Các câu 1-2
Habacúc vốn biết rõ Đức GIÊHÔVA sắp sửa kỷ luật dân chúng xứ Giuđa và đấy chẳng phải là một kinh nghiệm dễ chịu đâu. Tuy nhiên, ông đã chấp nhận phục theo ý chỉ của Đức GIÊHÔVA và đã cầu xin sự trợ giúp và thương xót.
Ông không cầu xin để tránh né phần kỷ luật, nhưng đã chấp nhận sự thực xứ Giuđa cần phải tiếp thu một bài học. Đức Chúa Trời vẫn kỷ luật chiếu theo tình yêu thương, để đem con cái Ngài quay trở lại với Ngài.
Hêbơrơ 12.5-6: “lại đã quên lời khuyên anh em như khuyên con, rằng: Hỡi con, chớ dể ngươi sự sửa phạt của Chúa, và khi Chúa trách, chớ ngã lòng; Vì Chúa sửa phạt kẻ Ngài yêu, hễ ai mà Ngài nhận làm con, thì cho roi cho vọt”.
Khi kỷ luật đến trên đường lối của chúng ta, chúng ta cần phải chấp nhận nó và cầu xin Chúa giúp đỡ chúng ta thay đổi.
Các câu 3-16
Ở đây, chúng ta thấy Habacúc đang tô vẽ bức tranh nói tới Đức Chúa Trời đang giải phóng dân sự Ngài ra khỏi Ai cập trong thời Môise. Bối cảnh thật là lạ lùng. Ông cũng sử dụng bức tranh ấy để thể hiện sự công bình và ngay thẳng.
Biết kính sợ bởi quyền phép của Chúa vẫn chưa phải là đủ. Chúng ta cần kỷ luật để học biết vâng theo và sống cho Ngài.
Các câu 17-19
Thất mùa và sự chết chóc của bầy gia súc sẽ tàn phá xứ Giuđa. Tuy nhiên, Habacúc nói rằng dầu trong kỳ đói kém, ông sẽ vui mừng nơi Đức GIÊHÔVA.
Mọi cảm xúc của ông không còn bị các hoàn cảnh kềm chế nữa, mà bởi đức tin ông đặt nơi khả năng của Đức GIÊHÔVA ban cho ông sức lực.
Khi không một việc gì có ý nghĩa và khi mọi rối rắm dường nhiều hơn chúng ta có thể mang nổi, chúng ta cần phải nhớ rằng Đức GIÊHÔVA là Đấng ban năng lực cho. Chúng ta cần phải xây mắt mình khỏi mọi hoàn cảnh và chỉ tập trung nhìn về Đức GIÊHÔVA.
Chính Đức GIÊHÔVA là Đấng có thể ban cho lòng tin cậy chúng ta có cần để đưa chúng ta qua những lúc khó khăn.
Theo thời điểm của Ngài, chớ không phải của chúng ta, Ngài sẽ tống khứ thế giới gian ác. Đồng thời, chúng ta cần phải sống trong quyền phép của Đức Thánh Linh, tin cậy nơi chiến thắng trọn vẹn của Đức GIÊHÔVA đối với sự ác.
Phần kết luận.
Habacúc đã thắc mắc Đức GIÊHÔVA tại sao kẻ ác lại thịnh vượng trong khi người công bình phải đau khổ.
Câu trả lời của Đức GIÊHÔVA, ấy là họ không ở trong cuộc chạy đường dài.
Ông đã nhìn thấy mọi hạn chế của chính mình khi đối chiếu với quyền tể trị của Đức GIÊHÔVA trên mọi sự đang diễn ra trên thế gian.
Đức Chúa Trời là hằng sống và đang tể trị trên mọi sự hiện xảy ra quanh chúng ta thậm chí khi mọi sự dường như ở ngoài tầm kiểm soát.
Chúng ta không thể nhìn thấy hết mọi điều mà Đức GIÊHÔVA đang làm hoặc mọi sự mà Ngài sẽ thực hiện. Nhưng chúng ta có thể yên nghỉ chắc chắn Ngài là Đức Chúa Trời và sẽ làm ra điều chi là công nghĩa. Với sự nhìn biết nầy có thể đem lại cho chúng ta lòng tin cậy, yên ủi, và hy vọng trong một thế giới đầy dẫy sự điên cuồng.

Thứ Ba, 21 tháng 12, 2010

TIÊN TRI ÊXÊCHIÊN



NHÂN VẬT KINH THÁNH
TIÊN TRI ÊXÊCHIÊN
Phần giới thiệu
:
Qua những lời tiên tri dẫn tới cuộc phu tù cho người Babylôn, chúng ta đã nhìn thấy Đức Chúa Trời trông mong dân sự Ngài ăn năn tội lỗi của họ và sống vâng phục Ngài. Tuy nhiên, dân sự phải có ý chí và phải chọn vâng phục.
Khi tôi lớn lên, nhiều lần bố mẹ tôi phải sử dụng kỷ luật trong đời sống tôi để đổi hướng ý ngoan cố của tôi. (Do đó, tôi tin rằng nếu các bậc phụ huynh ngày nay hiểu rõ nhu cần phải kỷ luật con cái họ, chúng ta sẽ nhìn thấy ít nan đề đi giữa vòng lớp người trẻ. Đây là nguyên tắc theo Kinh Thánh!)
Ở đâu thiếu kỷ luật trong một đời sống, ở đấy chỉ thêm nhiều sự bất tuân mà thôi. Vì, ở đâu không có kỷ luật, ở đó chỉ có một thái độ: “Tôi có thể xoay sở với việc kia, thì tôi có thể xoay sở với việc nầy”.
Có người nói rằng: “Tôi nghĩ chúng ta nên sử dụng sự củng cố tích cực thay vì kỷ luật buộc con trẻ phải vâng lời”. Việc như thế có thể tác động trong một số trường hợp, nhưng không mãi mãi được.
Đức Chúa Trời đã hứa mọi loại củng cố tích cực nếu Israel chỉ chịu vâng lời Ngài, nhưng việc ấy chẳng có hiệu quả. Ngài phải viện đến hình thức sửa phạt. Và Ngài sử dụng các vị tiên tri của Ngài đến phân phát sứ điệp để họ biết ăn năn tốt hơn rồi vâng theo Ngài hoặc sự sửa phạt sẽ xảy đến!
Tối nay, chúng ta nhắm vào tiên tri Đaniên (là nhân vật chúng ta đã nghiên cứu các nhân vật trong sách Đaniên) và xem xét tiên tri Êxêchiên. Êxêchiên là một người đã chọn vâng theo Đức Chúa Trời. Êxêchiên là một thầy tế lễ (1.3). Giống như ông đã khởi sự chức vụ mình là một thầy tế lễ, Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông trở thành một tiên tri. Êxêchiên vâng theo tiếng phán của Đức Chúa Trời và đã trở thành phát ngôn viên của Đức Chúa Trời lo kêu gọi dân sự của Đức Chúa Trời, những kẻ bị bắt đi làm phu tù trong xứ Babylôn nên ăn năn và vâng lời. Êxêchiên đã sống theo những gì ông rao giảng!
Chúng ta nắm bắt dòng thời gian chỉ ra thời thế của vị tiên tri nầy, hãy hiểu rằng Giêrêmi đã trở thành tiên tri cho xứ vào năm 627TC. Đaniên bị bắt đi làm phu tù trong xứ Babylôn ở cuộc xâm lược đầu tiên đã xảy ra khoảng 22 năm sau cuộc xâm lược ấy vào năm 605TC. Êxêchiên bị bắt đi làm phu tù trong cuộc xâm lược lần thứ hai khoảng 8 năm sau vào năm 597TC và đã trở thành tiên tri khoảng 4 năm sau, vào năm 593TC. Khoảng 7 năm sau đó, vào năm 586TC cuộc xâm lược thứ ba diễn ra khi xứ Giuđa sụp đổ và thành Jerusalem bị hủy diệt hoàn toàn.
I. LAI LỊCH CỦA ÊXÊCHIÊN.
Tên của ông có nghĩa là: “Đức Chúa Trời rất mạnh sức” hay “Người được Đức Chúa Trời làm cho mạnh mẽ”.
Tên của ông được tóm tắt bằng những gì Đức Chúa Trời đã làm trong đời sống ông. Đức Chúa Trời đã làm cho ông mạnh mẽ để có thể tỏ ra cho dân sự của Đức Chúa Trời thấy rằng Đức Chúa Trời rất mạnh sức.
Ông là con trai của một người có tên là Bu-xi, về nhân vật nầy chúng ta chẳng biết gì hết (1.3).
Êxêchiên chào đời và lớn lên trong xứ Giuđa và được sửa soạn để trở thành thầy tế lễ trong Đền Thờ của Đức Chúa Trời, khi người Canh-đê đến bao vây xứ Giuđa lần thứ nhì vào năm 597TC và đã bắt ông đi cùng với 10.000 phu tù khác nữa (II Các Vua 24.8-14).
II. SỰ KÊU GỌI VÀ SỨ MỆNH CỦA ÊXÊCHIÊN (1.1 – 3.27)
Giống như Giêrêmi, Êxêchiên là một thầy tế lễ khi Đức Chúa Trời kêu gọi ông.
Sau năm năm trong cuộc phu tù, sự kêu gọi của Đức Chúa Trời đến với Êxêchiên ở tuổi 30 (1.1)
Êxêchiên đã phục vụ trong xứ Babylôn khi Giêrêmi đang rao giảng cho người Do thái vẫn còn ở tại thành Jerusalem và Đaniên đang phục vụ trong triều đình Vua Nêbucátnếtsa.
A. Sự hiện thấy về những vật sống (1.1-28)
Các câu 1-3
Đức Chúa Trời đã truyền đạt cho Êxêchiên trong những sự hiện thấy. Dân sự của Đức Chúa Trời, những kẻ bị đày sang xứ Babylôn đã mất đi nhận thức về mục đích và sự hiện diện của Đức Chúa Trời, và Êxêchiên đã tiếp cận họ với một sự hiện thấy từ Đức Chúa Trời để cảnh cáo họ về các hậu quả của tội lỗi trước khi quá trễ.
Các câu 4-5 (và 6-25)
Trong lần hiện thấy đầu tiên nầy, Đức Chúa Trời kêu gọi Êxêchiên bước vào chức vụ nói tiên tri. Trong sự kêu gọi đó, Đức Chúa Trời đã tỏ ra cả sự hiện diện và quyền phép của Ngài cho Êxêchiên biết.
Luồng gió bão đến từ phương Bắc là một dấu hiệu chỉ về những đoàn quân mạnh sức của Babylôn đang hướng về thành Jerusalem như công cụ phán xét của Đức Chúa Trời giáng trên xứ Giuđa.
Sự hiện thấy nầy đã tỏ ra cho Êxêchiên biết rằng sự hủy diệt hầu đến của thành Jerusalem là sự sửa phạt của Đức Chúa Trời đối với tội lỗi của xứ sở và của dân Giuđa.
Lần tấn công của người Babylôn còn nặng nề hơn một cuộc tấn công về mặt thuộc thể, bốn sinh vật sống được mô tả ở các câu 6–25 cho thấy rằng đây cũng là một sự phán xét về mặt thuộc linh vì cớ tội lỗi nghịch lại một Đức Chúa Trời thánh khiết (đối chiếu các tạo vật trong Khải huyền 4.6-9).
Êxêchiên đã ở cách xa Đền Thờ tại thành Jerusalem khi ông nhận lãnh sự hiện thấy nầy. Tuy nhiên, qua sự hiện thấy nầy ông đã được nhắc nhớ rằng Đức Chúa Trời đang hiện diện ở khắp mọi nơi, và Ngài tể trị trên mọi điều đang diễn ra ở trên đất.
Các câu 25-28
Ở đây, chúng ta thấy những gì tôi tin là mô tả Êxêchiên đang đối mặt với Đức Chúa Jêsus Christ trước khi Ngài hóa thân thành nhục thể.
Hãy chú ý cách thức đáp ứng của Êxêchiên là sấp mặt xuống đất. Có phải điều nầy nhắc cho bạn nhớ tới trường hợp nào đó trong Tân Ước không? (Phaolô trong Công Vụ các Sứ đồ 9.3-4; Giăng trong Khải huyền 1.17).
Chúng ta chỉ có thể tưởng tượng Êxêchiên sẽ như thế nào khi kinh nghiệm sự hiện thấy nầy.
Chắc chắn có nhiều điều Êxêchiên không hiểu, cũng như có nhiều điều mà tôi nhất định không hiểu tới. Nhưng Êxêchiên biết rõ mỗi một chi tiết đều có ý nghĩa vì sự ấy đã đến từ Đức Chúa Trời.
B. Đức Chúa Trời kêu gọi Êxêchiên (2.1–10)
Câu 1
Đức Chúa Trời bất tử phán cùng Êxêchiên bằng cách gọi ông là Con Người.
Chắc chắn điều nầy đã nhấn mạnh khoảng cách ở giữa họ.
Đức Chúa Trời chọn thể hiện ý chỉ của Ngài trên đất qua chúng ta dù chúng ta là loại tạo vật bất toàn và giới hạn.
Câu 2
Chúng ta thấy ở đây, Êxêchiên đã có một thái độ rộng mở và vâng phục, còn Đức Chúa Trời thì làm cho ông được đầy dẫy với Thánh Linh của Ngài.
Đức Chúa Trời không mong chúng ta hiểu hết mọi sự về Ngài hay về những gì Ngài kêu gọi chúng ta phải lo làm. Ngài chỉ muốn chúng ta trở thành hạng tôi tớ biết bằng lòng và vâng phục, là hạng người trung tín làm theo y như Ngài bảo chúng ta phải lo làm.
Các câu 3-5
Êxêchiên cần phải phát ra sứ điệp của Đức Chúa Trời cho dân sự của Ngài dù họ có chịu nghe hay không!?! (Điều nầy nhắc cho chúng ta nhớ đôi điều về ơn kêu gọi của Êsai ở Êsai 6 và ơn kêu gọi của Giêrêmi ở Giêrêmi 1 mà chúng ta đã xem qua rồi trong các bài nghiên cứu trước đây).
Lượng thành công của Êxêchiên không phải ở chỗ dân sự đáp ứng có mỹ mãn hay không, mà ở chỗ ông vâng lời Đức Chúa Trời và lo chu toàn ý định của Đức Chúa Trời trong đời sống mình hay không mà thôi.
Cũng thực như thế với sự công bố của chúng ta về Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ!
Đức Chúa Trời sẽ không xét đoán chúng ta về những người khác đáp ứng mỹ mãn thế nào đối với Lẽ Thật mà chúng ta đang rao giảng.
Đức Chúa Trời sẽ xét đoán chúng ta về cách thức chúng ta trung tín thế nào khi lo rao giảng Lẽ Thật!
Đức Chúa Trời gọi hạng người nầy là “dày mặt”“cứng lòng” vì họ sống loạn nghịch và đã từ chối không chịu công nhận lối sống tội lỗi của họ.
Thậm chí khi các tiên tri thực của Đức Chúa Trời chỉ ra tội lỗi của họ, họ bất chấp lẽ thật.
Ngày nay, có nhiều người trong Hội Thánh sống y như dân sự Giuđa. Họ rất dày mặt và cứng lòng. Khi Lời Đức Chúa Trời được rao ra và tội lỗi bị phơi bày, hầu hết dân sự đều mang theo với đời sống họ chẳng một suy nghĩ nào về việc phải làm hòa lại với Đức Chúa Trời. Họ chỉ tiếp tục sống trong tình trạng gian ác của họ giống như thể chẳng có gì sai trái cả.
Các câu 6-10
Chúa bảo Êxêchiên đừng sợ họ hay lời nói của họ và đừng trở nên giống như họ.
Ngày nay có nhiều người, bất chấp sợ hãi, đã xem thường sứ điệp của Đức Chúa Trời.
Có những người lấy làm mệt mõi về những kẻ không chịu nghe và họ thôi không còn lo rao giảng nữa.
Có những người khác nữa, họ nhìn thấy hết thảy sự gian ác và quyết định dự phần vào “mặt tối tăm”.
Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta “hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi” (II Timôthê 4.2)
Thậm chí dù khi “sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo lành; nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, bịt tai không nghe lẽ thật, mà xây hướng về chuyện huyễn” (II Timôthê 4.3-4)
Bốn lần trong câu, Đức Chúa Trời bảo Êxêchiên đừng sợ hay đừng kinh hãi.
Với Thánh Linh của Đức Chúa Trời đang ngự trong chúng ta, chúng ta có thể gạt qua một bên những nổi sợ hãi về sự chối bỏ hay chế nhạo. Sức lực của Đức Chúa Trời là mạnh mẽ đủ để giúp chúng ta sống cho Ngài bất luận sự chế nhạo như thế nào hoặc các nghịch cảnh mà chúng ta có thể phải đối diện với.
C. Sự chỉ định của Đức Chúa Trời phải trở thành một người canh (3.1-27)
Các câu 1-3
Êxêchiên đã ăn lấy sứ điệp của Đức Chúa Trời rồi thấy thức ăn thuộc linh không những là ngon cho ông, mà còn ngọt như mật nữa (đối chiếu Khải huyền 10.8-10)
Nếu chúng ta tiêu hóa Lời của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ thấy rằng không những Lời ấy khiến cho chúng ta được mạnh mẽ trong đức tin mình, mà sự khôn ngoan của Lời ấy còn làm cho đời sống chúng ta ra ngọt như mật nữa.
Chúng ta cần phải nuôi mình về phần thuộc linh giống như chúng ta trưởng dưỡng thân thể mình về mặt thuộc thể nữa.
Các câu 4-9
Đức Chúa Trời bảo cho Êxêchiên biết rằng nếu ông được sai đi giống như một giáo sĩ ngoại quốc, những người kia sẽ chịu nghe theo ông, nhưng đồng bào của ông sẽ không chịu nghe đâu.
Đức Chúa Trời lặp lại sự dày mặt và cứng lòng của họ.
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã khiến cho ông được mạnh mẽ đủ để đứng nghịch lại sự chống đối mà ông sẽ đối diện với.
Các câu 10-11
Êxêchiên đã nhận lãnh Lời của Đức Chúa Trời và làm cho chúng ăn sâu tận đáy lòng ông trước khi rao giảng chúng cho nhiều người khác nghe.
Sứ điệp của Đức Chúa Trời phải ăn sâu vào đáy lòng chúng ta và tỏ ra trong mọi hành động của chúng ta trước khi chúng ta có thể vùa giúp cho nhiều người khác một cách hiệu quả để hiểu được rồi áp dụng Lời ấy.
Các câu 12-15
Êxêchiên trở nên cay đắng nóng nảy. Nhưng ông không nóng nảy với Đức Chúa Trời. Ông đã nóng nảy với tội lỗi và thái độ của dân sự.
Sự hiện thấy của ông kết thúc và giờ đây ông bước theo công việc mà Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông – nghĩa là, nói tiên tri cho dân nầy, họ ít quan tâm chẳng cần gì đến sứ điệp của Đức Chúa Trời.
Trước cuộc phu tù, chính số dân nầy là những kẻ mà Giêrêmi đã nói tiên tri cho họ, song họ chẳng khứng nghe.
Giờ đây, Êxêchiên đến với sứ điệp tương tự, và ông cũng mong bị từ chối. Nhưng ông đã có sự hiện thấy nầy từ Đức Chúa Trời rất tươi mới trong lý trí mình. Ông chẳng có gì phải sợ hãi vì Đức Chúa Trời đã ở cùng ông. Vì vậy, bất chấp hậu quả, Êxêchiên chỉ biết vâng theo Đức Chúa Trời mà thôi.
Êxêchiên đã ngồi yên lặng giữa vòng dân sự trong bảy ngày chờ đợi sứ điệp đến từ Đức Chúa Trời. Bảy ngày là thời gian thông thường dành cho việc than khóc kẻ chết. Kẻ chết trong trường hợp nầy là những người chết về mặt thuộc linh!
Các câu 16-21
Một người canh đứng trên bức tường thành và cảnh báo dân chúng về mối nguy hiểm đang đến gần.
Vai trò của Êxêchiên là phải trở thành người canh thuộc linh cảnh báo dân sự về sự phán xét của Đức Chúa Trời sắp xảy đến.
Một người canh nắm lấy trách nhiệm và sẽ thường phải trả giá bằng mạng sống mình nếu người thất bại không cảnh cáo thành phố về mối nguy hiểm đang tới gần. Không nghi ngờ chi nữa, Đức Chúa Trời đã buộc Êxêchiên chịu trách nhiệm về những người mà ông đã thất bại không chịu cảnh cáo họ.
Chúng ta cũng là những người canh, chúng ta phải cảnh cáo kẻ bị hư mất về mối nguy hiểm hầu đến của địa ngục và cảnh cáo người được cứu về sự phán xét hầu đến tại ngôi của Đức Chúa Trời.
Trong những câu nầy, chúng ta cần phải biết rằng Đức Chúa Trời không nói về việc mất đi ơn cứu rỗi, nhưng thay vì thế về sự chết theo phần xác.
Các câu 22-27
Một lần nữa, chúng ta thấy như trước đây, Êxêchiên đã sấp mặt xuống đất khi đối diện với sự vinh hiển của Đức GIÊHÔVA.
Khi chúng ta nhìn thấy Đức Chúa Trời trong mọi vinh quang và thánh khiết của Ngài, chúng ta phải sấp mặt mình xuống đất trước mặt Ngài!
Khi Thánh Linh của Đức Chúa Trời nhập vào ông, Ngài khiến ông đứng trên chân của mình.
Công Vụ các Sứ đồ 1.8: “Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất”.
Êxêchiên được phép nói chỉ khi Đức Chúa Trời có một sứ điệp cho dân sự Ngài để dân sự Ngài sẽ nhìn biết rằng bất cứ điều chi Êxêchiên thốt ra đều là sứ điệp của Đức Chúa Trời. Họ không lấy làm lạ nếu Êxêchiên đang nói bởi uy quyền của ông hay bởi quyền phép của Đức Chúa Trời.
III. CHỨC VỤ CỦA ÊXÊCHIÊN.
Vậy thì Đức Chúa Trời đã sai tiên tri Êxêchiên làm việc gì?
A. Có những sứ điệp nói tới sự sụp đổ(4.1-24.27)
1. Đức Chúa Trời sai ông đến giúp cho các phu tù hiểu rõ lý do tại sao họ đã bị đưa sang Babylôn trong chỗ thứ nhứt.
Israel đã phạm tội và kế đó họ đã từ chối không chịu ăn năn và đấy là lý do tại sao sự sửa phạt của Đức Chúa Trời xảy đến.
Cả sự sụp đổ của thành Jerusalem và cuộc lưu đày sang Babylôn là sự sửa phạt nơi tay của Đức Chúa Trời để chỉnh sửa dân sự Ngài và kéo họ ra khỏi lối sống tội lỗi của họ.
Êxêchiên đã cảnh cáo họ không những Đức Chúa Trời buộc xứ Giuđa phải chịu trách nhiệm về tội lỗi, mà mỗi cá nhân còn phải trình sổ với Ngài về tội lỗi cá nhân của họ nữa.
2. Đức Chúa Trời đã sai ông để xua tan hy vọng giả dối của họ khi cho rằng tình trạng phu tù của họ chỉ là một tình trạng ngắn ngủi.
Giống như những người đã sống trong thành Jerusalem (là những người mà Giêrêmi đã nói tiên tri cho họ), những người Do thái nầy, họ đã là phu tù rồi, đã tin rằng thành Jerusalem sẽ không sụp đổ và không bao lâu nữa họ sẽ trở về lại xứ sở của mình.
Êxêchiên đã cảnh cáo họ sự sửa phạt nầy là chắc chắn vì vớ tội lỗi của họ và Đức Chúa Trời đã ở trong tiến trình thanh lọc dân sự Ngài.
Ông nói cho họ biết rằng Đức Chúa Trời là thánh khiết và ông nói cho họ biết thành Jerusalem và Đền thờ đã trở nên ô uế. Xứ sở sẽ bị thanh lọc qua 70 năm phu tù.
B. Có những sứ điệp nói nghịch lại các thành dân Ngoại và các nước.
Êxêchiên đã được sai đến để xét đoán mọi hành động tội lỗi của cả những thành phố và quốc gia:
1. Am-môn (25.1-7)
Vì cớ họ vui mừng khi có sự báng bổ Đền Thờ.
2. Mô-áp (25.8-11)
Vì họ lấy làm vui sướng nơi sự gian ác của Giuđa.
3. Ê-đôm (25.12-14)
Vì cớ sự thù hằn chủng tộc đối với người Do thái. Họ thù ghét Israel nhiều đến nỗi họ lấy làm vui mừng khi thành Jerusalem bị hủy diệt. (Chú ý: sự hủy diệt Ê-đôm cũng được nhắc tới ở chương 35)
4. Philitin (25.15-17)
Vì họ tìm cách báo thù nghịch lại Giuđa vì đã đánh bại họ trong chiến trận.
5. Ty-rơ (Thủ phủ của Phê-ni-xi) (26.1 – 28.19)
Ty-rơ vui mừng khi thành Jerusalem sụp đổ, vì Ty-rơ và Giuđa luôn luôn tranh giành lợi lộc thương mại đi ngang xứ họ từ Ai cập ở miền Nam và xứ Mêsô bôtami ở phía Bắc.
Ty-rơ quản trị đường biển thương mại trong khi Giuđa quản trị các con đường thương mại bằng lạc đà. Khi Giuđa bị đánh bại, Ty-rơ nghĩ rằng mình sẽ tự có những con đường thương mại ấy. Nhưng sự hả hê của họ không kéo dài. Đến năm 585TC, Babylôn đã tấn công Ty-rơ và sau cùng bị dẫn tù sau 13 năm chiến trận.
6. Si-đôn (28.20-26)
Đây là cảng nổi tiếng khác nằm cách phía Bắc Ty-rơ chừng vài dặm và nền kinh tế của nó gắn bó với Ty-rơ. Họ bị kết án xem thường dân sự của Đức Chúa Trời.
7. Ai cập (29.1 – 32.32)
Có bảy lời tiên tri trong phân đoạn Kinh Thánh nầy, hết thảy đều xử lý với sự phán xét giáng trên Ai cập.
Có ba lý do cho thấy tại sao Đức Chúa Trời sẽ xét đoán Ai cập:
a. Ai cập là một kẻ thù thời xa xưa của người Do thái (đã bắt họ làm nô lệ trong 400 năm).
b. Ai cập đã thờ lạy rất nhiều tà thần.
c. Ai cập phản bội Israel khi họ đã ký kết liên minh với họ.
8. Tại sao Babylôn không được nhắc tới?
Vài điều khả thi tồn tại. Có lẽ như thế là vì:
a. Đức Chúa Trời muốn khuyến khích một tinh thần hợp tác giữa những cuộc lưu đày và Babylôn để bảo tồn dân sự của Ngài.
b. Đức Chúa Trời vẫn sử dụng Babylôn để thanh lọc chính dân sự của Ngài.
c. Đức Chúa Trời muốn sử dụng Đaniên, ông đã trở thành một quan chức có quyền lực trong xứ Babylôn, để kéo người Babylôn đến với Ngài.
C. Có những sứ điệp nói tới hy vọng (33.1–48.35)
1. Đức Chúa Trời đã sai Êxêchiên mang đến cho những kẻ phu tù một sứ điệp mới nói tới hy vọng.
Sau sự sụp đổ của thành Jerusalem, Êxêchiên đã phân phát những sứ điệp nói tới sự phục hưng và hy vọng trong tương lai cho người Do thái.
Ông yên ủi dân sự bằng cách nói cho họ biết ngày sẽ đến khi Đức Chúa Trời phục hồi lại những kẻ biết ăn năn và giữ lòng trung tín với Ngài (nghĩa là, số dân sót).
Đức Chúa Trời sẽ làm Vua và Đấng Chăn Giữ họ, và Ngài sẽ ban cho dân sự Ngài một tấm lòng mới để thờ phượng Ngài. Ngài sẽ lập một chính quyền mới và một Đền Thờ mới.
2. Đức Chúa Trời đã sai Êxêchiên để nhắc cho những kẻ phu tù nhớ đến nhu cần của họ phải nương vậy vào chính mình Đức Chúa Trời.
Phần kết luận:
Vì thế, chúng ta đọc trong lời tiên tri của Êxêchiên thấy rằng với uy quyền thiêng liêng ông đã xua tan đi mọi ảo tưởng, đoạn tuyệt với những tiên tri giả, và công bố sự ăn năn, sự phấn hưng và sự làm nên mới.
Truyền khẩu cho rằng Êxêchiên bị kết án tử hình bởi những phu tù đồng bào của ông vì cớ ông trung tín và dạn dĩ trong việc đoạn tuyệt với họ vì họ thờ lạy hình tượng.